không có vua nguyễn huy thiệp

Nguyễn Huy Thiệp . GIA CảNH Cô Sinh về làm dâu nhà lão Kiền đã mấy năm nay. Khi về, cô Sinh mang theo bốn bộ quần áo mỏng, một áo dạ mặc rét, hai áo len, một vỏ chăn hoa, bốn cái xoong nhôm một cái xoong bột, một cái phích hai lít rưỡi, một cái chậu tắm, một tá khăn bông, tóm lại là một đống tiền, nói như bà mẹ cô Sinh làm nghề buôn gạo ở chợ Xanh. Nguyễn Huy Thiệp (1950- 2021) là đơn vị văn tiền tiến toàn nước nổi tiếng cùng với các thể loại truyện nlắp, kịch, tiểu tmáu, phê bình văn uống học. Sự ra đi của ông vào chiều 20-3 vừa qua đang để lại niềm tiếc tmùi hương vô hạn với nhiều nắm hệ công chúng bạn đọc. Bạn đang xem: Nhà văn nguyễn huy thiệp PHÂN TÍCH TRUYỆN NGẮN KHÔNG CÓ VUA CỦA NGUYỄN HUY THIỆP * - Tiểu Luận - Hợp Lưu. - Tạp Chí Hợp Lưu 18939 Magnolia St. Fountain Valley, CA 92708 - USA Điện thoại: (714) 381-8780 E-mail: tapchihopluu@aol.com. THỂ LOẠI. Biên Khảo. Truyện Ngắn. Ước lệ của Nguyễn Huy Thiệp hoàn toàn là sự thật vì nó báo hiệu cho một thế giới đang bị mất niềm tin. Trong truyện của Nguyễn Huy Thiệp có mặt đầy đủ các loại tín ngưỡng và lý tưởng của con người như Nho học và các loại thần học…, triết học hiện sinh và kể cả duy vật biện chứng. Tuy nhiên, có tín ngưỡng, lý tưởng, nhưng không có tín đồ. by. Nguyễn Huy Thiệp. 4.24 · Rating details · 59 ratings · 2 reviews. Không có vua lại là tuyển tập truyện ngắn thể hiện một cây bút văn chương sắc sảo, cái nhìn táo bạo vào những khía cạnh nhảy cảm tinh tế trong cuộc sống. Site De Rencontre Kabyle En Algerie. Gia cảnh Cô Sinh về làm dâu nhà lão Kiền đã mấy năm nay. Khi về, cô Sinh mang theo bốn bộ quần áo mỏng, một áo dạ mặc rét, hai áo len, một vỏ chăn hoa, bốn cái xoong nhôm một cái xoong bột, một cái phích hai lít rưỡi, một cái chậu tắm, một tá khăn bông, tóm lại là một đống tiền, nói như bà mẹ cô Sinh làm nghề buôn gạo ở chợ Xanh. Cậu Cấn chồng cô Sinh là thương binh. Họ quen biết nhau trong dịp tình cờ. Hai người cùng trú dưới hiên nhà trong một trận mưa. Chuyện này đã có người viết thế mới biết nhà văn ở ta xông xáo! Theo đồn đại, đại để đấy là một “xen” scène về tình yêu giản dị, trong sáng, không vụ lợi, cuộc sống là duy vật biện chứng, hài hòa, đẹp, đáng yêu, Cấn là con trưởng. Dưới Cấn có bốn em trai, chênh nhau một, hai tuổi. Đoài là công chức ngành giáo dục, Khiêm là nhân viên lò mổ thuộc Công ty thực phẩm, Khảm là sinh viên đại học, Tốn, con út bị bệnh thần kinh, người teo tóp, dị dạng. Nhà lão Kiền sáu người. Toàn đàn ông. Bà Nhớn, vợ lão Kiền, mất đã mười một năm, lúc đó lão Kiền năm mươi ba tuổi, cái tuổi oái ăm, lấy vợ nữa cùng dở, không lấy vợ nừa cũng dở. Lão Kiền chọn cái dở ít hơn, ở vậy… Nhà lão Kiền trông ra mặt đường. Lão làm nghề chữa xe đạp. Cấn làm nghề cắt tóc khi mới quen Sinh, anh nói làm nghề dịch vụ. Được tiếp thu một nền giáo dục gia đình bình dân cha dạy học, mẹ buôn gạo, Sinh không phải là người có nhiều định kiến hẹp hòi. Hơn nữa, trong tính cách, thậm chí ở cô có phần phóng túng. Trình độ văn hóa hạn chế Sinh tốt nghiệp phổ thông cơ sở nhưng điều đó không can hệ gì. Với phụ nữ, học vấn giữ vai trò thứ yếu tạo nên sức mạnh thần thánh ở họ, điều này không phải chứng minh. Về làm dâu, lúc đầu Sinh khá ngỡ ngàng với không khí tự do trong nhà. ăn cơm chẳng ai mời ai, sáu người đàn ông, ai cũng cởi trần, mặc quần đùi cười nói thản nhiên, chan chan húp húp như rồng cuốn. Sinh phục vụ cơm nước ba lần một ngày. Dược cái việc nặng Sinh không phải làm, có Tốn giúp đỡ. Tốn suốt ngày lau nhà, giặt giũ. Nó không có khả năng làm việc gì khác. Cứ cái xô nhựa với tấm giẻ lau, khoảng vài tiếng nó lại ìau nhà một lần. Nó không chịu được bẩn. Quần áo ai thay ra, nó cũng giặt mà giặt rất sạch, phơi phóng cẩn thận. Tốn ít nói, nếu ai hỏi gì, chỉ cười bẽn lẽn, trả lời nhát gừng. Vừa làm, nó vừa ti tỉ hát, không hiểu học được khi nào bài hát của bọn bợm rượu A ha… Không có vua Sớm đến chiều say sưa Tháng với ngày thoi đưa Tớ với mình dây dưu, Tình với tính hay chưa Tốn hay giúp đỡ Sinh, nó cư xử với Sinh bằng lòng tốt vô bờ bến. Những ý thích nhỏ nhặt của cô, nó thực hiện với lòng tận tụy cầm thú. Nửa đêm, nếu Sinh buột miệng “có ô mai thì thích” là sẽ có ngay ô mai. Không biết Tốn lấy tiền ở đâu, đi mua lúc nào, chuyện này chịu. Ở trong nhà Sinh hãi nhất lão Kiền, sau đến Khiêm. Lão Kiền suốt ngày cau có. Mọi người không ai thích lão. Lão kiếm ra tiền, lão cãi nhau với mọi người như cơm bữa, lời lẽ độc địa. Như với Đoài, lão bảo “Mày ấy à? Công chức gì mặt mày? Lười như hủi, chữ tác chữ tộ không biết, chỉ giỏi đục khoét!” Hay với Khảm, cậu sinh viên năm thứ hai “Đồ ruồi nhặng! Học với chả hành! Người ta dạy dỗ mày cũng phí cơm toi”. Với Cấn, lão có đỡ hơn, thỉnh thoảng cũng khen, nhưng lời khen lại quá lời chửi “Hay thật, cái nghề cạo râu ngoáy tai của mày, nhục thì nhục nhưng hái ra tiền!!l Riêng với Khiêm, lão ít gây sự. Khiêm to lớn, lừng lững, tính nóng nẩy. Hàng ngày đi làm vể Khiêm hay làm ca đêm, Khiêm đều mang về khi cân thịt, khi bộ lòng. ít hôm Khiêm về không. Đoài hay nói cũng là nói sau lưng Khiêm “Trước sau cũng vào tù thôi. Cái thằng ấy tôi đã thấy trước tương lai của nó. ít cũng sáu năm tù. Kể cũng lạ. Một năm nó ăn cắp đến nửa tấn thịt mà người ta để yên cho nó! ” Khiêm có vẻ khinh hải ông anh. Với Cấn, nếu Khiêm cắt tóc bao giờ Khiêm cũng trả tiền. Khiêm bảo “Anh đừng làm bộ với tôi. Tôi bắt anh phục vụ tôi có quyền trả tiền”. Cấn nhăn nhó “Chú làm anh như người ngoài ấy”. Khiêm bảo “Không phải người ngoài, anh không nhận thì thôi, tôi đi hàng khác, tôi bắt thằng khác ngoáy tai cho tôi… Kìa, cẩn thận con dao. Đừng cạo của tôi bộ ria mép dấy”. Cấn chẳng biết trả lời ra sao, phải nhận tiền. Sinh bảo chồng “Anh nhận tiền chú ấy khinh cho”. Cấn bảo Tôi là anh cả, nó khinh tôi thế nào dược”. Với Đoài, Khiêm coi như kẻ thù. Nhưng Đoài khôn, Khiêm không nói gì được. Khi đi làm, Đoài bao giờ cũng lấy cơm vào cặp lồng, cho vào mấy miếng thịt, mấy miếng lòng. Đoài bảo “Có chút đạm này là đủ hai nghìn calo để làm việc cả ngày đây Cũng là nhờ chú Khiêm nhà mình vừa khéo vừa nhanh”. Khiêm hỏi “Khéo với nhanh cái gì?” Đoài bảo “ấy là tôi nói chú khéo xử sự với người, mà nhanh xử sự với lợn”. Khiêm tức nghẹn họng, sùi bọt mép. Sinh lọt vào gia đình nhà này tựa như cơn mưa rơi xuống đất nẻ. Không khí dịu lại. Vài tháng đầu, lão Kiền không gây sự gì với con cái. Cấn là người hạnh phúc nhất. Anh cầm kéo cắt tanh tách, đối xử với khách hết sức nhã nhặn. Cấn quyết định nâng giá cắt tóc từ ba chục lên năm chục, ngoáy tai từ một chục lên hai chục, gội đầu từ hai chục lên ba chục, cạo râu từ một chục lên hai chục. Doanh thu tăng vọt. Mức chi tiêu gia đình chủ yếu do Cấn cầm cân nảy mực có phần rộng rãi. Đoài thấy mức chi tiêu tăng lên, ban đầu hoảng sợ nhưng không thấy ai hỏi han gì về khoản đóng góp thường lệ của mình nên bình tâm hơn. Còn Khiêm, vẫn y như tháng trước, tháng trước nữa, không chi ra một hào nhưng đều đặn góp vào mỗi hôm một cỗ lòng hoặc một hai cân thịt. ăn lòng lợn hơn chục hóm liền, Sinh phát sợ, bảo chồng “Mai chú Khiêm có mang lòng về thì tôi đưa ra chợ để đổi thứ khác đấy”. Cấn cười, mắt ve vuốt thân hình mềm mại của vợ, bảo rằng “Tùy ái khanh“. Buổi sáng Thường thường, ở nhà thì Khiêm là người hay dậy sớm nhất. Khiêm để đồng hồ báo thức một giờ sáng. Khi chuông reo, Khiêm dậy ngay, dánh răng súc miệng rồi dắt xe đi. Tốn ra khóa cửa. Đoài bị mất ngủ, càu nhàu “Thật là giờ làm việc của quân đạo tặc”. Ba giờ sáng, lão Kiền dậy, cắm bếp điện đun nước pha chè. Cái ổ cắm bếp điện bị hở, chữa nhiều lần nhưng cứ ít hôm lại có người bị điện giật đến thót, lão Kiền bị điện giật, bèn chửi “Cha chúng mày, chúng mày ám hại ông. Chúng mày mong ông chết, nhưng trời có mắt, ông còn sống lâu”. Đoài nằm trong giường nói vọng ra “ở đâu không biết, chứ ở nhà này thì lá vàng còn ở trên cây, lá xanh rụng xuống là chuyện thường tình”. Lão Kiền chửi “Mẹ cha mày, mày ăn nói với bố thế à? Tao không hiểu thế nào người ta lại cho mày làm việc ở Bộ giáo dục! ” Đoài cười “Họ xét lý lịch, họ thấy nhà mình truyền thống, ba đời trong sạch như gương”. Lão Kiền lẩm bẩm “Chứ không à? Chúng mày thì tao không biết, nhưng từ tao ngược lên, nhà này chưa có ai làm gì thất đức”. Đoài bảo ” Phải rồi. Một miếng vá xăm đáng một chục nhưng tương lên ba chục thì có đức đấy”. Lão Kiền bao “Mẹ cha mày, thế mày nâng bát cơm lên miệng hàng ngày mày có nghĩ không?” Khảm rên rỉ “Thôi thôi, anh Đoài ơi anh thương em với, hôm nay em phải thi vấn đáp môn triết học đây”. Đoài bảo “Triết học là thứ xa xỉ của bọn mọt sách. Chú có thấy cái chuỗi hạt nhựa đeo cổ của chị Sinh không. Nó là triết học đấy” Khảm không trả lời. Căn nhà lặng im được độ một tiếng đồng hồ thì lại nhộn nhịp. Đấy là bốn rưỡi sáng, Sinh dậy nấu cơm. Sinh dậy nấu cơm, lấy sáu bò rưỡi gạo. Cấn lúi húi nhặt rau. Khảm bảo “Đẹp đôi thật. Có việc gì để em làm giúp”. Sinh bảo “Chỗ mỡ lòng hôm qua đầy kiến, chú làm sao chắt được hết kiến thì làm”. Khảm bảo “ở nước mình, mật độ lòng lợn trên đầu người thì nhà mình là nhất. Em đã thử thống kê, một năm anh Khiêm mang về hai trăm sáu mươi bộ lòng”. Đoài bảo ” Em giai ơi, thằng ấy là phúc thiện tinh của nhà mình đấy. Nói không phải, cái nghề đồ tể của nó giá trị gấp mười lần cái bằng đại học của tao với mày”. Lão Kiền mở cửa hàng. Một bà cắp thúng xôi đi qua ngó vào “Mời bác xơi quà sáng”. Lão Kiền xua tay quầy quậy “Giời ơi, nhà làm ăn, mới sáng ra đàn bà con gái đã ám thế này thì làm ăn gì”. Bà bán xôi bảo “Chẳng bao giờ tôi bán được một hào xôi cho lão già này”. Cấn cầm dao mài soàn soạt vào miếng da bò, lẩm bẩm “Hôm nay cắt được chục cái đầu thì hay”. Cơm dọn ra, Sinh với Khảm ngồi hai đầu nồi. Khảm xới cơm, Sinh bảo “Cơm nóng, chú lèn thế thì ai ăn được?” Khảm bảo “Chị đừng lo. Họ Sĩ nhà này toàn miệng gang miệng thép”. Sinh bảo “Mời bố ăn cơm, mời anh Cấn và các chú ăn cơm”. Đoài bảo “Nhập gia tùy tục, ở nhà này không có lệ mời. Khảm xới tao một bát”. Khảm bảo “ăn nhanh thế, em mới được hai và”. Đoài bảo “Tao ăn cơm tập thể từ mười bốn tuổi, ăn nhanh quen rồi. Hồi học đại học, có thằng bạn ăn sáu bát cơm trong một phút rưỡi. Thế có kinh không?” Lão Kiền bảo “Quân trí thức bây giờ toàn phường phàm phu tục tử” Khảm cười “Các cụ ngày xưa chẳng dạy “Có thực mới vực được đạo” là gì?” Lão Kiền hỏi “Bọn chúng mày bây giờ thì vực đạo gì?” Đoài ăn xong đứng lên vươn vai ” Cái này phải tranh luận đấy. Tôi đang ngờ cái ông ngày xưa nói ra câu ấy chẳng hiểu quái gì về đạo. Đáng ra phải nói “Có thực mới vực được tình”. Tức là tình người đấy, đồng bào ạ”. Cấn cười tủm tỉm “Chú thì lắm tình lắm”. Đoài nhìn chăm chú vào khoảng lõm ở ngực chị dâu, nơi chiếc khuy bấm vừa tuột ra, bâng quơ “Tình ơi tình, mình ơi mình, tình hở hang lắm cho mình ngẩn ngơ”. Sinh đỏ mặt, một lát sau lén cài khuy áo. Sinh dọn mâm bát. Lão Kiền ngồi uống nước. Khảm mặc quần áo, quần bò, áo phông, trên áo có ghi dòng chữ “Walt Disney Productions”. Khảm bảo “Anh Cấn ơi, anh cho em năm chục”. Cấn bảo “Tiền đâu mà cho” Khảm bảo “Bố cho con năm chục”. Lão Kiền bảo “Mày ngồi vá cho tao cái xăm để góc kia kìa, rồi tao cho tiền”. Khảm nhăn nhó “Thế thì muộn giờ học còn gì”. Lão Kiền không trả lời, mở tủ dồ nghề lúi húi làm việc. Khảm dắt xe ra cửa, nghĩ thế nào lại dựng xe ôm cặp vào nhà. Khảm mở cửa buồng, trông trước trông sau không thấy ai, mở thùng gạo xúc ra bò rưỡi vào cặp rồi lẻn đi ra. Sinh cất nồi dưới bếp. Đoài đi theo, lấy cơm vào cặp lồng. Đoài đưa tay chạm vào lưng Sinh, Đoài bảo “Người chị tôi cứ mềm như bún”. Sinh lùi lại, hốt hoảng “Chết, chú Đoài, sao lại thế” Đoài bảo “Gớm, đùa một tý đã run bắn người”. Nói xong đi lên nhà. Tốn xách xô nước, cặm cụi lau sàn, ti tỉ hát “A ha… không có vua… ” Có người đến cắt tóc, Cấn hỏi “Bác cắt tóc kiểu gì?” Khách bảo “Chú cắt thấp cho tôi. Cẩn thận, tôi mọc cái đầu đanh gần chỗ đỉnh đầu”. Đoài mặc xong quần áo, dắt xe đi. Đoài đến cửa quay lại bảo Cấn “Ngày kia giỗ mẹ, anh Cấn bảo chú Khiêm mai kiếm cho được cân thịt ngon ngon. Em đưa chị Sinh một trăm rồi đấy!!. Cấn bảo “Nhớ rồi”. Ngày giỗ Giỗ bà Nhớn, lão Kiền làm năm mâm. Bên ngoại có ông Vỹ, em ruột bà Nhớn ở Phúc Yên về dự. Ông Vỹ là công chức về hưu, hưởng lương chuyên viên ba một trăm phần trăm. Ông Vỹ đông con, nhà nghèo, về mang theo mỗi chục quả tai chua với chai rượu trắng làm quà. Trên phố xuống có vợ chồng cô em gái lão Kiền, bà này bán hàng khô, chồng tên là Hiển, làm thợ thiếc. Ông Hiển có năm đứa con vừa trai vừa gái. Khách dự có anh Minh, trưởng phòng, cùng cơ quan với Đoài. Khảm dẫn về ba bạn học cùng lớp, một cô tên là My Lan, một cô tên là Mỹ Trinh. Cậu con trai tên là Việt Hùng, đeo kính trắng, có đôi môi đỏ như môi con gái. Khoảng mười giờ, khách đến đông dủ. Cấn bưng một mâm đặt trước bàn thờ, thắp ba nén hương rồi quay ra bảo “Bố vào cúng”. Lão Kiền mặc quần bảo hộ lao động, áo cộc tay trắng ba túi, đầu chải nước lã rất mượt, ra trước bàn thờ chắp tay, lầm rầm khấn “Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, năm thứ… Lạy Trời, lạy Phật, lạy tổ, lạy tiên, lạy vợ tôi là Ngô Thị Nhớn. Mời tất cả chư vị về dự cơm nhạt với tôi. Tôi, Nguyễn Sĩ Kiền, sáu mươi tư tuổi, ngụ ở 129 phố… Các con trai là Cấn, Đoài, Khiêm, Khảm, Tốn. Con dâu là Sinh. Tất cả dều lòng thành, xin chư vị phù hộ độ trì, cho sức khỏe dồi dào, làm ăn tấn tới”. Cúng xong, lão Kiền quay ra bảo ông Vỹ “Cậu vào lạy chị cậu một cái”. Ông Vỹ mặc áo đại cán kiểu Tôn Trung Sơn, cài khuy đến cổ, trông rất trịnh trọng. Ông Vỹ bảo “Cán bộ chúng em vô thần. Bốn chục năm nay em theo cách mạng, nhà không có bàn thờ, chẳng biết khấn vái thế nào”. Lão Kiền im lặng, mắt đỏ hoe. Ông Vỹ đến trước bàn thờ, đứng nghiêm, gục đầu như mặc niệm. Lão Kiền lau mắt, bảo “Bây giờ thứ tự, người nào vào cúng thì cúng”. Bà Hiển bày lên bàn thờ năm trăm vàng, một xếp tiền âm phủ, một bộ quần áo giấy rồi quỳ thụp xuống, chống. tay, lạy ba lạy, đầu chạm sát dất. Ông Hiển đến trước bàn thờ vái ba vái. Cấn cũng vái ba vái. Cấn bảo ” Chú Đoài vào lễ đi”. Đoài đang chặt thịt gà, tay đầy mỡ, cứ để thế không rửa tay, chạy lại bàn thờ vái lia lịa. Đoài bảo “Lạy mẹ, mẹ phù hộ cho con đi học nước ngoài, kiếm cái xe Cub”. Ông Vỹ cười “Cháu đi nước nào?” Đoài bảo – Cái đấy còn phụ thuộc cái ông để ria mép mặc áo ca rô kia kìa”. Anh Minh nghe thấy bảo “Đi hay không sao lại phụ thuộc vào tôi?” Đoài bảo “Gì thì gì, anh là sếp trực tiếp, anh quay lưng lại thì em rồi đời”. Anh Minh bảo “Cậu cứ làm việc cho tốt. Tớ ủng hộ”. Đoài bảo “Công việc nhà nước biết thế nào là tốt xấu? Chỉ xin anh nhớ thằng Đoài lúc nào cũng tốt với anh”. Sinh lúi húi dưới bếp. Trong buồng Sinh, Khảm đang giới thiệu với ba người bạn tập anbum có chụp những ảnh củá Khảm, có cả ảnh hồi bé tập lẫy. Cô My Lan bảo “Anh Khảm hồi bé bụ ghê”. Khảm bảo “Con anh sau này cũng bụ thế, nhưng xinh hơn, có cái nốt ruồi ở cằm”. My Lan đỏ mặt, sờ vào cái nốt ruồi cằm mình, đấm thùm thụp vào lưng Khảm. Việt Hùng hỏi “ảnh này chụp hồi đi thực tập phải không?” Khảm bảo “ừ!”. Việt Hùng khen “Nét lắm”. My Lan hỏi “Có phải hồi ấy anh ăn trộm khoai, bị dân quân bắt không” Khảm đỏ mặt bảo “Toàn nói lăng nhăng, mắc tội nói xấu đồng đội. Thế nào tớ cũng bắt đền”. My Lan hỏi Bắt đền gì?” Khảm bảo “Đợi tối thì biết”. Mọi người cười. Đoài ngó vào, vẫy tay gọi Khảm. Đoài bảo “Dọn mâm”. Khảm hỏi “ăn rồi à?” Đoài không trả lời Khảm đi theo Đoài xuống bếp. Đoài hỏi ” Cô có cái nốt ruồi là người yêu mày đấy à?” Khảm bảo “Vâng”. Đoài hỏi “Thế cái vị anh hùng thơm nức kia là thế nào?” Khảm cười “Đấy là Mỹ Trinh, bố cô ấy là ông ánh sáng ban ngày, chủ hiệu điện”. Đoài hỏi “Thằng kia với nó thế nào?” Khảm bảo “Chưa có gì”. Đoài bảo “Tao chim nó đấy”. Khảm bê mâm, Sinh bảo “Thiếu cái gì thì gọi”. Đợi Khảm đi khuất, Đoài bảo “Thiếu một tý tình thôi, Sinh cho tôi xin một tý tình”. Sinh bảo “Nỡm. Lên nhà trên mà bảo hai cô bạn của chú Khảm ấy” Đoài bảo “Hai con ôn vật ấy bằng thế nào được Sinh”. Sinh bảo “Đi ra đi”. Đoài bảo “Cái lão Cấn của Sinh như con cua bấy mà lại hách dịch”. Sinh bảo “Tôi mách anh Cấn đấy”. Đoài bảo “Đây chẳng sợ”. Nói rồi xán lại, hôn chút lên má Sinh. Sinh đẩy ra, Đoài hổn hển “Tôi nói trước, thế nào tôi cũng ngủ được với Sinh một lần”. Nói xong đi ra, Sinh bật khóc. Cấn đi vào, thấy mắt vợ đỏ hoe, hỏi “Sao thế?” Sinh bảo “Tại cái bếp nhà mình khốn nạn quá”. Cấn bảo “Cô cho mấy ấm nước lên đi, trên nhà hết cả nước sôi”. Sinh bảo “Tôi có ba đầu sáu tay đâu?” Cấn trừng mắt “Nói năng thế à? Nhà này không có lệ thế! Mấy cái bát này sao chưa rửa?”. Nói rồi, xô chồng bát, đi ra. Chồng bát vỡ. Sinh khóc òa lên. ăn đợt đầu ba mâm. ăn xong khách ra về. Lại ăn đợt sau hai mâm. Lúc ấy cũng hơn hai giờ chiều. Đang ăn, Khiêm đi làm về, lầm lầm lì lì chẳng chào hỏi ai. Khảm bảo “Anh Khiêm ngồi cùng mâm với chúng em cho vui”. Hai cô My Lan, Mỹ Trinh cũng ríu rít mời. Cả mâm chống đũa chờ. Lão Kiền say rượu, nằm ngủ lơ mơ trên giường, nước dãi đọng trên chiếu. Đoài chào mọi người để đưa ông Vỹ ra bến ô tô cho kịp chuyến xe Phúc Yên buổi chiều. Khiêm hỏi “Thằng Tốn đâu?” Khảm bảo “Nó loanh quanh đâu đấy, anh ra ăn cơm, chúng em chờ”. Khiêm bảo “Cứ ăn đi”. Khảm bảo “Ta ăn thôi. Ông ấy khó tính bỏ mẹ”. Cô Mỹ Trinh bảo “Anh ấy trông như Tácdăng”. Khiêm xuống bếp hỏi Sinh “Thằng Tốn đâu?” Sinh bảo “Tôi bận bịu từ tờ mờ sáng cũng quên khuấy. Không biết chú ấy đâu?” Khiêm vứt vào chạn bát một bao tải nặng. Sinh hỏi “Lại lòng à?” Khiêm không trả lời, đi lên nhà, ngó vào buồng Sinh thấy Cấn đang ngáy khò khò. Khiêm xô cửa bước vào hỏi Cấn “Thằng Tốn đâu?” Cấn ngồi dậy hỏí “Mấy giờ rồi?” Khiêm hỏi “Thằng Tốn đâu? ” Cấn bảo Nhà có việc, để nó ra vào bất tiện. Tôi nhốt nó trong cái buồng ở cạnh nhà xí”. Khiêm cầm cái gạt tàn thuốc lá trên bàn ném vào mặt Cấn. Cấn kêu “ối” một tiếng rồi ngã lăn ra. Khiêm xô vào đạp túi bụi. Khảm chạy vào đẩy Khiêm ra. Sinh chạy lên hốt hoảng nói ” Sao lại thế” Khiêm gạt Sinh ra.. Căn phòng cạnh nhà xí trước là chuồng lợn, nay để than củi. Cánh cửa bằng gỗ thùng đóng ghép. Có ai mới làm thêm chiếc khóa bên ngoài, hôm qua chưa có. Khiêm giật khóa, không được. Khiêm cầm xà beng phá khóa. Cửa mở ra. Tốn chân tay mặt mũi đen nhẻm đang nhe răng cười. Khiêm quát “Đi ra”. Tốn lết đôi chân què đi lên nhà. Thấy nhà bẩn, nó xách ngay cái xô nước với tấm giẻ lau. Mấy người bạn của Khảm chào lí nhí rồi về, Khảm dắt xe ra theo. Trước khi đi, Khảm rút vội mấy điếu thuốc lá trên bàn cho vào túi áo. Lão Kiền tỉnh rượu, thấy nhà vắng tanh, hỏi “Chúng mày đâu cả?” Sinh lấy miến cho Tốn ăn. Tốn đói, ăn ba bốn bát liền, sợi miến lòng thòn vương ra đất. Khiêm dắt xe ra cửa, không ăn uống gì. Cấn ôm ngực ho sù sụ, nhổ ra một chiếc răng gãy, máu dây bên khóe mép. Cấn giơ nắm đấm trước mặt bố, bảo rằng “Ông liệu tống thằng ấy ra khỏi nhà này, không tôi giết nó”. Lão Kiền bảo ” Chúng mày cứ giết nhau đi, tao càng mừng”. Nói rồi cầm chiếc khóa hỏng trên tay, lẩm bẩm “Mất cả sáng lắp được chiếc khóa. Thế là toi trăm bạc”. Ngày Tết Thấm thoắt đến Tết. Rằm tháng Chạp, lão Kiền đi ngân hàng rút lãi tiết kiệm được tám nghìn đồng. Lão Kiền mua cho Tốn cái áo sơ mi, mua cho Sinh đôi bít tất, còn lại tiền đưa cả cho Cấn. Khảm bảo “Bố chỉ quý con dâu, con út”. Khiêm phải theo xe đi các tỉnh mua lợn, vắng nhà mấy ngày liền. Công việc chắc vất vả , hôm nào Khiêm cũng đi làm từ mười một giờ đêm đến trưa hôm sau mới về, người toàn mùi phân lợn. Về nhà vật ra ngủ liền, thế mà mắt cứ lõm sâu vào, vằn tia máu đỏ. Cấn cũng đông khách . Từ sáu giờ sáng đến mười giờ đêm lúc nào cũng có người chờ cắt tóc. Buổi trưa Cấn ngủ, Khảm ra cắt tóc thay anh. Hôm đầu chưa quen, Khảm cắt phải tai một ông khảch làm chảy máu. Ông này tức, tiền cắt tóc hết bảy mươi đồng chỉ trả có hai mươi đồng. Cấn lấy bút chì ghi tiền làm được hàng ngày vào một cuốn sổ, một trăm đồng thì ghi dấu cộng, hai trăm đồng dấu khuyên tròn, lại vẽ những hình tam giác trong chấm một cái chẳng biết là ký hiệu gì. Đoài bảo “Sổ sách kế toán của ông này thật như gián điệp” . Ngày 23 tháng Chạp ăn Tết ông Táo lên trời. Sinh nấu miến, mọi người ăn no căng bụng. Khảm hỏi “Sao gọi là ông Táo?” Đoài bảo “Chuyện thế này. Ông Táo là ba ông đầu rau. Ngày xưa có hai anh em cùng lấy một vợ. Người này một hôm ngủ với anh , một hôm ngủ với em . Khi họ chết, Ngọc Hoàng cảm động mối tình khăng khít của họ, biến mỗi người thành một ông đầu rau để lúc nào cũng gần gặn. Ta gọi là thần Bếp, hay ông Táo”. Sinh bưng mâm xuống bếp. Khảm bảo “Ngày xưa được phong thần dễ nhỉ?” Lão Kiền bảo “Đừng nghe nó”. Đoài bảo “Lại có chuyện thế này. Nhà kia có cô con dâu, bố chồng bóp vú cô ta . Đứa con trai hỏi ” Sao ông bóp vú vợ tôi?” Ông bố bảo “Để trừ nợ. Thế hồi xưa sao mày bóp vú vợ tao?”. Nghe nói những người này cũng được phong thần”. Cấn bảo “Chuyện của chú, tôi chẳng hiểu gì” . Lão Kiền bảo “Đừng nghe nó” . Ngày 27 , lão Kiền gói bánh chưng. Gói một yến rưỡi nếp, được hăm tám chiếc bánh. Bánh có hai loại, loại nhân đỗ, loại nhân đường, loại nhân đường đánh dấu bằng sợi lạt nhuộm phẩm đỏ. Sinh luộc bánh chưng. Đoài quanh quẩn ở bếp. Đoài hỏi “Sinh biết nhà này tương lai thuộc về ai không?” Sinh bảo “Không”. Đoài cười “Về tôi”. Sinh hỏi “Sao thế ?” Đoài bảo “Bố già bố chết. Thằng Khiêm trước sau cũng vào tù. Thằng Khảm ra trường không đi Tây Bắc thì cũng Tây Nguyên. Thằng Tốn không nói làm gì, vô tích sự”. Sinh hỏi “Thế còn anh Cấn?” Đoài bảo “Phụ thuộc vào Sinh. Nến Sinh yêu tôi, tôi sẽ gây sự tống cổ ra đường”. Sinh bảo “Dễ thế?” Đoài bảo “Sinh còn quyến luyến cái gì? Lão Cấn vừa ngu vừa hèn, lại yếu, bác sĩ bảo bị lãnh tinh, lấy Sinh hai năm mà có con cái gì đâu?” Sinh ngồi yên, nồi bánh chưng sôi sùng sục. Đoài bảo “Tối nay tôi vào buồng Sinh nhé! ” Sinh vớ con dao, nói khẽ “Cút đi. Anh đến gần đây là tôi giết đấy! ” Đoài cười nhạt, đi giật lùi, bỏ lên nhà, vừa đi vừa lẩm bẩm “Đàn bà là giống ác quỷ”. Hai chín Tết, lão Kiền đi chợ mua về một cành hoa đào. Đến chiều ba mươi, Khiêm mang về một chậu quất to ba tầng quả với bánh pháo cối dài sáu mét. Khảm bảo “Chơi sang quá đấy”. Đoài bảo “Nó cậy lắm tiền”. Khảm bảo “Hai anh em mình mang tiếng có học mà Tết nhất đến, một bộ quần áo hẳn hoi không có”. Đoài bảo “Chỉ có con đường lấy vợ giàu thôi. Tối nay mày đưa tao đến con ông ánh sáng ban ngày đấy nhé”. Khảm bảo “Được thôi. Nếu anh tán được thưởng em cái gì?” Đoài bảo “Thưởng cái đồng hồ”. Khảm bảo “Được rồi. Anh ghi cho em mấy chữ làm bằng”. Đoài hỏi “Không tin tao à?” Khảm bảo “Không”. Đoài ghi vào giấy “Ngủ được với Mỹ Trinh, thưởng một đồng hồ trị giá ba nghìn dồng. Lấy Mỹ Trinh, thưởng 5% của hồi môn. Ngày… tháng… năm… Nguyễn Sĩ Đoài”. Khảm cười cất mảnh giấy vào túi rồi nói “Cám ơn”. Khảm bảo “Hôm qua em nghe anh Khiêm kể chuyện, thế là đến tối gặp phải giấc mơ kinh quá”. Đoài hỏi ” Chuyện gì?” Khảm bảo “Anh Khiêm kể về công việc giết lợn. Hai tay cầm hai cực điện dí vào thái dương từng con. “éc” phát là chết. Bị mất điện, anh Khiêm phải dùng xà beng quật vào gáy lợn. Gặp con lợn khỏe, quật chục cái không chết, gáy toét cả ra, buồn ngủ quá, anh Khiêm quật cả vào chân. Một ca anh Khiêm giết được hơn nghìn con lợn, được khen thưởng”. Đoài hỏi “Thế giấc mơ gì?” Khảm bảo “Em mơ thấy đi giết lợn, giết mãi không chết, con lợn cứ nhe răng cười, thế là bị đuổi đi dọn cả một bể cứt. Bể cứt xây xi măng, kích thước 10x 6 x l, 5 mét, dung tích 90 khối. Mưa bão đến, bể cứt trôi phăng phăng, em ngập trong ấy, cứt vào cả mồm, cả lỗ tai”. Đoài bảo”Giấc mơ tốt đấy còn công việc để ý làm gì. Mà y chơi xổ số đi, thế nào cũng trúng. Các cụ bảo giẫm vào cứt là có lộc về. Mày chìm cả người trong bể cứt, có khi mày trúng xổ số độc đắc cũng nên”. Khảm bảo “ừ nhỉ. Anh không nói thì em không biết”. Nói rồi hớn hở chạy ra phố. Lúc giao thừa, ở nhà khi ấy chỉ có Khiêm, Tốn với Sinh. Ông bà Hiển cho con rể đi xe máy xuống mời lão Kiền với Cấn lên phố chơi từ chập tối, chắc uống rượu say chưa về được. Đoài với Khảm dẫn hai cô Mỹ Trinh và My Lan đi chùa Ngọc Sơn hái lộc. Khiêm bày lên bàn thờ con gà mái tơ Sinh luộc từ chiều, mỏ ngậm một bông hoa hồng. Lại mở hộp mứt, lấy rượu rót ra ba cốc, pha một ấm chè, bày cả lên đấy. Khiêm bảo ” Chị Sinh ra lễ”. Sinh thoa tí son, mặc quần côn, áo len dài bên trong, bên ngoài khoác áo len cộc đan kiểu gilê, không cài khuy, cổ choàng một chiếc voan mỏng màu hoàng yến, trông khác hẳn ngày thường vẫn mặc bộ đồ trong nhà. Sinh bảo “Chú lễ đi. Tôi đàn bà con gái biết khấn thế nào”. Khiêm bảo “Chị là bề trên, chị cứ vái ba vái trước còn đâu tôi khấn”. Sinh bảo ” Cũng được”. Nói rồi ra trước bàn thờ vái ba vái, đứng lẩm nhẩm một lúc, lại vái ba vái nữa, không phải là người không biết nghi thức. Khiêm bảo Tốn “Tao treo bánh pháo ở cửa, lúc nào tao khấn xong thì châm lửa đốt”. Nói rồi châm điếu thuốc đầu lọc cắm vào miệng Tốn. Khiêm bảo ” Cầm điếu thuốc dí thế này này”. Tốn gật đầu. Khiêm vái ba vái, nói ” Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Năm thứ…” Tốn đốt pháo. Cả ba nét mặt rạng rỡ. Trời đất giao hòa, lòng người cảm động. Khiêm bảo “Năm mới, chúc chị Sinh sức khỏe, may mắn. Mừng tuổi chị một nghìn, chị cầm lấy để cho có lộc”. Sinh rớm nước mắt “Cho tôi nhiều thế” Tôi cũng chúc chú mạnh khỏe, bằng năm bằng mười năm ngoái. Anh Cấn giữ hết cả tiền, tôi chẳng có gì mừng tuổi cho chú. Chị mừng tuổi Tốn một trăm. Đây là lộc của chú Khiêm”. Tốn cầm tiền giơ lên ánh đèn, hỏi “Tiền à?” Khiêm bảo “ừ” Tốn hỏi “Tiền là gì?” Khiêm bảo “Là vua”. Một giờ sáng lão Kiền với Cấn về. Một lúc sau, Đoài với Khảm cũng về. C ả nhà ngồi ăn uống đến ba giờ, chợp mắt được nửa tiếng, lại lục đục dậy làm cỗ, khấn vái qua loa, lại ăn uống. Đến tám giờ, lão Kiền bảo “Tao đi chúc Tết hàng xóm, vợ chồng thằng Cấn đi theo tao. Khiêm ơi, mày cho bố ít tiền để đi mừng tuổi”. Lão Kiền và vợ chồng Cấn đi chúc Tết. Lão Kiền mặc quần bảo hộ lao động, áo dạ len, đội mũ len trùm đầu. Cấn mặc bộ quần áo may kiểu quân phục cấp úy, bộ quần áo này mua trên chợ Giời, có một vết thủng ở ống tay áo do tàn thuốc rơi vào. Sinh mặc quần bò nhung, áo lông Đức. Khảm bảo “Chị Sinh trông như Hoàng hậu”. Nhà hàng xóm sang chúc Tết, Đoài ra tiếp. Chúc mừng xong xuôi ngồi uống nước nói chuyện phiếm. Đoài bảo “Xin lỗi bác, cháu chẳng biết nhà bác có bao nhiêu người, tên là gì? ” Ông hàng xóm cười “Thì tôi cũng thế”. Đoài bảo “Ngày xưa bọn ăn trộm có luật chia ra bốn loại mà chúng không lấy một là nhà hàng xóm, hai là nhà bạn bè, ba là nhà đang có chuyện buồn, bốn là nhà đang có chuyện vui. Cứ thế này, cháu đi ăn trộm, lơ mơ phạm luật”. Ông hàng xóm cười “Thì các con tôi cũng thế”. Uống nước xong, mọi người ra về. Đứa con ông hàng xóm bảo ” Cái tay Đoài có học mà ăn nói linh tinh”. Ông hàng xóm bảo “Loạn”. Ba ngày Tết trôi qua, lòng đường đầy xác pháo. Ai cũng có cảm giác ngày Tết trôi nhanh! Ngày nào mà chẳng trôi nhanh, hở giời? Buổi tối Cuối tháng ba, Sinh tắt kinh, thèm ăn của chua, thỉnh thoảng lại nôn oẹ, người cứng đơ, triệu chứng có thai. Tháng năm xảy ra việc lão Kiền ốm, đầu tiên tưởng nhẹ, ai ngờ cứ nặng dần. Đầu tiên lão Kiền chỉ hoa mắt, nhìn một hóa hai, cửa không đi cứ đâm sầm vào tường. Cả nhà lo sợ, đưa đi bệnh viện Tây y. Bác sĩ chẩn đoán rối loạn chức năng thần kinh, cho uống B6. Bác sĩ bảo “Đây này, dây thần kinh thế này, hai dây chập vào nhau, thế là trông một thành hai, trông gà hóa cuốc”. Cấn hỏi “Thưa bác sĩ, vậy làm thế nào?” Bác sĩ bảo “Y học đang nghiên cứu”. Nằm một tuần, mắt lão Kiền mờ đi. Đoài bảo “Tôi ngờ đoán nhầm bệnh” Đoài sang nhờ người quen ở bệnh viện Đông y. Người này bảo “Tây y ra quái gì. Chú về đưa ông cụ đến đây”. Đoài về, xin cho lão Kiền chuyển viện. Bác sĩ bảo “Đi là không trở lại đâu nhé”. Lão Kiền điều trị Đông y, không khỏi, người rạc đi, đầu đau nhức. Dến tháng mười phát hiện tháy có u não. Bác sĩ bảo “Để thì chết, mổ may ra cứu được”. Cấn về họp gia đình, Cấn bảo “Làm thế nào? Từ khi bố ốm nhà mình tiêu nhiều tiền lắm”. Cấn giở quyển sổ kế toán ra đọc “Chú Khiêm đưa một lần một nghìn, một lần tám nghìn, một lần năm nghìn. Chú Đoài đưa một lần một trăm, một lần sáu chục, một lần một nghìn mốt. Chú Khảm đưa một lần ba trăm nhưng hôm tôi đưa một nghìn đi lấy thuốc ông lang Toại, chú Khảm mua hết có năm trăm, còn năm trăm vẫn cầm. Tiền thức ăn thế này… thế này… Ai chi gì tôi ghi cả”. Đoài bảo “Tôi nghĩ bố già rồi, mổ cũng thế, cứ để chết là hơn”. Tốn khóc hu hu. Cấn hỏi “ý chú Khảm thế nào?” Khảm bảo “Các anh thế nào thì em thế”. Cấn hỏi “Chú Khiêm sao im thế?” Khiêm hỏi “Anh định thế nào?” Cấn bảo “Tôi đang nghĩ”. Đoài bảo “Mất thì giờ bỏ mẹ. Ai đồng ý bố chết giơ tay, tôi biểu quyết nhé”. Hôm lão Kiền mổ não, trừ Sinh với Tốn, mấy anh em đều kéo nhau lên bệnh viện. Ca mổ kéo dàì bốn mươi hai phút. Ngồi ngoài phòng chờ, Đoài bảo Khảm “Ông cụ không viết di chúc mới gay, sau này tài sản biết chia thế nào?” Khảm bảo “Lão Cấn tham lắm, anh em mình rồi ra đường thôi”. Đoài bảo “Sang năm tao cưới Mỹ Trinh, ông ánh sáng ban ngày hứa cho một cây. Mày bảo một cây mua nổi nhà không?” Khảm bảo “Vào tay em, em nhân nó lên vài cây ngay”. Đoài bảo “Có năng khiếu kinh doanh thích thật, còn các năng khiếu như văn chương, nghệ thuật, v. v… đều vô dụng cả”. Cấn vào gặp bác sĩ. Một lúc sau đi ra lắc đầu “Bác sĩ bảo khoảng một tháng nữa thì đưa bố về”. Hôm đưa lão Kiền về, lão Kiền đầu quấn băng, hỏi gì cũng không nói, mắt lờ đờ. Vào trong nhà, Sinh tháo gỡ băng ra. Đầu lão Kiền trọc lốc, nổi lện một khối u to như. quả trứng gà. Nửa tháng sau, khối u này to bằng nửa quả bưởi, lấy ngón tay ấn vào thấy như có chứa bã dậu ở trong, ấn mạnh thì lõm sâu, ấn nhẹ thì lõm ít. Sinh phục vụ, săn sóc, rất khổ sở. Khảm hỏi Đoài “Bệnh này có lây không?” Đoài bảo”Có kiêng có lành. Tao khuyên mày cẩn thận. Vợ chồng lão Cấn còn có tiền. Thằng Khiêm còn có tiền. Tao với mày lở bệnh, tiền đâu mà chữa?” ít lâu sau, lão Kiền mê sảng, cứ rên rỉ “Cho tôi chết đi, đau đớn lắm”. Không khí trong nhà u ám, ai cũng buồn rầu. Đến ngay Tốn cũng bỏ lau nhà, suốt ngày ngồi thu lu trong cái buồng vẫn để than củi cạnh nhà xí. Bà Hiển trên phố xuống, thấy anh mình vật vã đau đớn, khóc “Anh ơi, tiền oan nghiệp chướng gì mà anh chết khổ, chết sở thế này”. Bà Hiển bảo “Chúng mày xem thế nào chứ? Để thế này à?” Cấn bảo “Cô bảo làm thế nào nữa?” Bà Hiển bảo. “Cô có người bạn, bà ấy có bài kinh Vô thường, bây giờ xin chép về đọc, may ra ông ấy sẽ đi yên ổn”. Đoài bảo “Lại thế nữa”. Bà Hiển bắt Khiêm đèo lên phố, đến nhà bà bạn để chép kinh Vô thường. Khiêm mang về bảo Đoài “Anh giỏi chữ, anh đọc đi”. Đoài cầm tờ giấy, xoay ngang xoay dọc rồi lắc đầu “Chữ nghĩa chú viết thế này thì tôi xin chịu, thật quá sổ sách kế toán ông Cấn”. Khiêm vào đọc kinh. Lúc ấy là chập tối. Bà Hiển thắp hương ngồi cạnh. Lão Kiền lúc đầu vật vã, rồi nằm yên. Mười một giờ đêm, mọi người đi ngủ. Khiêm vẫn ngồi đọc. Đọc đi rồi lại đọc lại. Đại ý bài kinh xin đức Phật giải tội cho người sắp chết, để nghiệp chướng cho người sống chịu, lời lẽ khó hiểu. Suốt đêm Khiêm ngồi đọc, lạc cả giọng. Đến bốn giờ sáng hôm sau, lão Kiền tắt thở, trên môi thấp thoáng nụ cười, trông rất hiền lành, trung hậu. Khiêm vuốt mắt bố rồi vào gọi Cấn. Cả nhà dậy. Đoài bảo “Ông cụ đi rồi. Thật may quá. Bây giờ tôi đi mua quan tài”. Ngày thường Sau hôm giỗ lão Kiền một trăm ngày, Sinh đẻ con gái. Đón Sinh về, mọi người làm tiệc mừng. Cấn với Khảm đi chợ. Khiêm nấu nướng. Đoài với Tốn dọn nhà. Hai cô My Lan và Mỹ Trinh đến dự, mua cả hoa. Vào tiệc, mọi người để Sinh ngồi giữa, hai cô My Lan và Mỹ Trinh ngồi hai bên. Sinh đẹp lộng ìẫy Đoài rót rượu ra cốc, đứng lên nói “Cốc rượu này tôi dâng cuộc sống. Rượu vừa ngọt vừa cay. Ai chấp nhận cuộc snng thì cầm lên cho. Cuộc sống dù khỉ gió nhưng đẹp tuyệt vời. Vì đứa trẻ mới sinh ra kia, vì tương lai của nó”. Mọi người nâng cốc, Đoài bảo “Khoan đã. Nhưng nó tên gì nhỉ?” Mọi người cười. Cùng uống rượu vui, Khiêm bảo “Chị Sinh ơi về làm dâu họ Sĩ nhà này chị có khổ không?” Khảm bảo “Chị phải nói thế nào cho hai cô My Lan, Mỹ Trinh khỏi sợ”. Sinh cười “Cứ thế này thì không thấy khổ”. Cấn hỏi “Thế ngày thường thì thấy khổ à?” Sinh bảo “Khổ chứ. Nhục lắm. Vừa đau đớn, vừa chua xót. Nhưng thương lắm”. Tốn mỉm cười ngô nghê nhắc lại “Thương lắm!” Người đưa thư qua cửa ngó vào “Nhà 129 phải không? Có điện đấy”. Cấn ra nhận điện, bảo “Cậu Vỹ ở Phúc Yên mất lúc tám giờ sáng hôm qua”. Đoài bảo “Cứ gác lại đã. Các bác già chết đi có gì là lạ? Tiếp tục cuộc vui đi. Nào, xin mời chư tướng!” Phân tích truyện ngắn “Không có vua”_Nguyễn Huy Thiệp Dàn ý Tóm tắt truyện Đề tài, chủ đề Ý nghĩa nhan đề Tư tưởng của truyện Cảm hứng truyện Những giá trị thẩm mĩ Bài làm chi tiết Tóm tắt truyện ngắn Không có vua” Lão Kiền làm nghề chữa xe đạp, vợ lão đã mất mười một năm trước nhưng lão vẫn ở vậy. Nhà lão Kiền có năm người con trai Cấn là con trưởng, làm nghề cắt tóc. Dưới Cấn là Đoài – công chức ngành giáo dục, Khiêm – nhân viên lò mổ, Khảm – sinh viên đại học và Tốn – người em út bị bệnh thần kinh, người teo tóp, dị dạng. Sinh là vợ của Cấn, về làm dâu nhà lão Kiền đã được mấy năm. Gia đình lão Kiền là một gia đình không có tôn ti trật tự, ăn cơm không ai mời ai, cha con, anh em thường xuyên cãi cọ, chửi bới, châm biếm nhau, thậm chí còn có những hành động bạo lực. Dường như chỉ có Tốn là đáng yêu nhất, nó rất chăm chỉ làm việc nhà và hay giúp đỡ Sinh, cư xử với Sinh bằng lòng tốt vô bờ bến. Ngày giỗ bà Nhớn vợ lão Kiền, sau khi cúng xong, lão Kiền bảo ông Vỹ - em trai bà Nhớn ra lạy chị nhưng ông ta đi theo Cách mạng, mấy chục năm nay không thờ cúng gì nên chẳng biết khấn vái thế nào. Đoài thì đang chặt thịt gà trong bếp, hai tay đầy mỡ cũng ra vái lạy, xin mẹ phù hộ về đường công danh. Khảm thì ngồi với mấy người bạn học tán tỉnh nhau. Trong lúc dọn mâm, nhân lúc vắng người, Đoài buông những lời cợt nhả, chòng ghẹo Sinh, khiến Sinh bật khóc. Cấn thấy căn bếp lộn xộn, bát đũa chưa rửa liền mắng Sinh và xô đổ chồng bát. Buổi chiều, khi mọi người đang ăn thì Khiêm đi làm về, không thấy thằng Tốn đâu. Hóa ra vì nhà có việc nên Cấn đã nhốt thằng Tốn vào trong cái buồng cạnh nhà xí vốn trước là chuồng lợn nay để than củi. Biết chuyện, Khiêm tức giận ném cái gạt tàn thuốc lá vào mặt Cấn và xô vào đạp túi bụi khiến Cấn bị gẫy răng, máu bê bết. Khiêm dùng xẻng phá khóa mở của cho Tốn, thằng Tốn thấy nhà bẩn lại lập tức đi lau nhà, lão Kiền thì chỉ thấy tiếc cái khóa hỏng. Sinh bị mất chiếc nhẫn, mọi người cho rằng do bạn của Khảm lấy cắp, Khảm và Cấn bèn đi đòi. Ở nhà, Sinh đi tắm, lão Kiền nhìn trộm con dâu tắm. Tốn thấy vậy chỉ cho Đoài hành động của bố liền bị Đoài tát ngã vập mặt vào cái xô. Cuối cùng Tốn lau nhà tìm thấy cái nhẫn của Sinh, nhưng khi Cấn và Khảm trở về trong bộ dạng thảm hại vì mấy con chó béc-giê nhà kia thì lão Kiền lại bảo là Sinh giấu cái nhẫn trong cạp quần. Cấn mắng Sinh là “Đồ khốn nạn” rồi tát Sinh một cái nảy đom đóm mắt. Đoài cầm con dao ngăn lại dọa nếu Cấn còn đánh Sinh nữa thì sẽ đâm Cấn. Lão Kiền thì tiếc cái búa mà hai đứa con mang đi đòi lại nhẫn đã bị mất. Gần Tết, lão Kiền đi rút tiền tiết kiệm, mua quà cho Tốn và Sinh còn lại đưa cho Cấn giữ hết. Đoài lại dụ dỗ, gạ gẫm Sinh nhưng Sinh quyết liệt từ chối. Lúc giao thừa chỉ có Khiêm, Tốn và Sinh ở nhà. Đó là một buổi tối giao thừa vui vè và cảm động. Khiêm nhường Sinh lễ gia tiên trước vì Sinh là “bề trên”, rồi Khiêm mừng tuổi cho Sinh, Sinh lại mừng tuổi cho Tốn. Sau đó, lão Kiền và vợ chồng Cấn đi chúc Tết hàng xóm, Đoài ở nhà tiếp khách nhưng anh ta thậm chí không biết nhà người hàng xóm đến thăm mình có những ai và người hàng xóm cũng vậy. Tháng năm, Lão Kiền bị ốm, chữa cả Tây y, Đông y đều không khỏi, đến tháng mười thì phát hiện bị u não. Các con lão tính toán chi tiêu thấy rằng đã tốn kém rất nhiều để chữa bệnh cho cha và suy nghĩ về việc để cho bố chết thì hơn. Khi Cấn và Khiêm đang phân vân thì Đoài nói “Ai đồng ý bố chết giơ tay, tôi biểu quyết nhé”. Cuối cùng lão Kiền cũng được phẫu thuật, khi ngồi đợi ngoài phòng mổ, Đoài và Khảm rất lo lắng vì bố chưa viết di chúc. Sau đó, cũng chỉ có Sinh tận tình chăm sóc, phục dịch lão, còn Đoài và Khảm thì sợ lây bệnh nên có ý lảng tránh. Khi lão Kiền sắp mất, bà Hiển – em gái lão chép được bài kinh đẻ đọc giải tội giúp lão ra đi thanh thản. Đoài là người “nhiều chữ” nhưng không chịu đọc vì chữ viết xấu, cuối cùng chính Khiêm – người con tai làm nghề đồ tể lại đọc kinh cho cha nghe suốt đêm đến nỗi lạc cả giọng. Khoảng bốn giờ sáng hôm đó lão Kiền chết, Đoài rất mừng vì “may quá. Ông cụ đi rồi” và hăng hái đi mua quan tài. Một trăm ngày sau khi lão Kiền qua đời, Sinh sinh con gái. Trong lúc mọi người đang mở tiệc ăn mừng thì có người đến báo tin ông Vỹ - cậu ruột của các con ông Kiền mới chết đêm qua nhưng Đoài nói“Cứ gác lại đã, các cụ già chết đi có gì là lạ” và bảo mọi người hãy tiếp tục cuộc vui. Đề tài và chủ đề Đề tài Cuộc sống con người trong xã hội hiện đại Cuộc sống gia đình câu chuyện về gia đình ông Kiền. Cuộc sống xã hội quan hệ giữa gia đình ông Kiền với các gia đình hàng xóm. Chủ đề Sự suy thoái, xuống cấp của đạo đức và văn hóa truyền thống trong xã hội hiện đại. Phân tích Biểu hiện về sự băng hoại đạo đức qua sơ đồ trên và triết lý nhân sinh - Thứ nhất bức tranh con người đồ vật hóa dẫm đạp lên đạo đức truyền thống + Quan hệ giữa lão Kiền và 5 thằng con trai “ Lão Kiền suốt ngày cau có. Mọi người không ai thích lão. Lão kiếm ra tiền, lão cãi nhau với mọi người như cơm bữa, lời lẽ độc địa. Như với Đoài, lão bảo "Mày ấy à? Công chức gì mặt mày? Lười như hủi, chữ tác chữ tộ không biết, chỉ giỏi đục khoét". Hay với Khảm, cậu sinh viên năm thứ hai "Đồ ruồi nhặng! Học với chả hành! Người ta dạy dỗ mày cũng phí cơm toi”. Với Cấn, lão có đỡ hơn, thỉnh thoảng cũng khen, nhưng lời khen lại quá lời chửi "Hay thật, cái nghề cạo râu ngoáy tai của mày, nhục thì nhục nhưng hái ra tiền". Hay các chi tiết lão Kiền ăn nói tục tĩu với con cái, coi đồng tiền cao cả hơn tình yêu thương khi người các con xây xát vì vật lộn với con bécgiê khi đi gây sự đòi chiếc nhẫn của Sinh từ người bạn của Khảm “Lão Kiền hỏi Khảm "Có mang búa về không?". Khảm cáu "Tí nữa mất mạng với hai con chó bécgiê còn búa với lại kìm gì?". Lão Kiền bảo "Thế lại toi trăm bạc"; hay “ chúng mày cứ giết nhau đi, tao càng mừng” ->Chữ “ Cha” theo nghĩa nào? + Quan hệ với Sinh qua cách ứng xử của người Bố chồng “Lão Kiền loay hoay dưới bếp, nghe tiếng dội nước ở trong buồng tắm, thở dài, bỏ lên nhà. Đi vài bước, lão Kiền quay lại, vào trong bếp, bắc chiếc ghế đẩu, trèo lên nín thở ngó sang buồng tắm. Trong buồng tắm, Sinh đứng khỏa thân.” ->Sự băng hoại đạo đức của người cha, bản ngã phần Con lớn hơn phần Người trong người cha. + Quan hệ với Sinh qua cách ứng xử của Đoài- em chồng "Đoài nhìn chăm chú vào khoảng lõm ở ngực chị dâu, nơi chiếc khuy bấm vừa tuột ra, bâng quơ"Tình ơi tình, mình ơi mình, tình hở hang lắm cho mình ngẩn ngơ"; "Đoài đi theo, lấy cơm vào cặp lồng. Đoài đưa tay chạm vào lưng Sinh, Đoài bảo "Người chị tôi cứ mềm như bún";Đoài hổn hển "Tôi nói trước, thế nào tôi cũng ngủ được với Sinh một lần"; “Tối nay tôi vào buồng Sinh nhé!” ->Sự phi giáo dục từ nhân vật học thức về mối quan hệ gia đình, cách ứng xử trong gia đình. + Quan hệ anh em trong một gia đình “Cấn giơ nắm đấm trước mặt bố, bảo rằng "Ông liệu tống thằng ấy ra khỏi nhà này, không tôi giết nó"; Khiêm hỏi "Thằng Tốn đâu?". Cấn bảo "Nhà có việc, để nó ra vào bất tiện. Tôi nhốt nó trong cái buồng ở cạnh nhà xí". Khiêm cầm cái gạt tàn thuốc lá trên bàn ném vào mặt Cấn. Cấn kêu "ối" một tiếng rồi ngã lăn ra…” ->Anh em như thể tay chân!? - Thứ 2 bức tranh con người đồ vật hóa dẫm đạp lên đạo đức truyền thống bằng xâm hại bạo lực “Khi Sinh bảo "Tôi có ba đầu sáu tay đâu?" vì làm quần quật mà vẫn bị Cấn hạch tội để cho nhà trên hết nước sôi, Cấn đã trừng mắt "Nói năng thế à? Nhà này không có lệ thế! Mấy cái bát này sao chưa rửa?". Nói rồi, xô chồng bát, đi ra; Khi biết sự thực là Cấn đã nhốt Tốn trong cái buồng ở cạnh nhà xí vì ''Nhà có việc, để nó ra vào bất tiện", Khiêm đã "cầm cái gạt tàn thuốc lá trên bàn ném vào mặt Cấn. Cấn kêu "ối" một tiếng rồi ngã lăn ra. Khiêm xô vào đạp túi bụi";Khi nghe Cấn bảo thấy tận mắt thằng bạn của Khảm lấy cắp nhẫn của Sinh, Khảm bảo "Phải đến nhà nó mà đòi. Không trả thì đánh bỏ mẹ nó đi". Cấn xin đi theo Khảm. Lão Kiền bảo "Mang theo cái búa!"; Khi biết chiếc nhẫn của Sinh chẳng phải bị mất cắp, lại nghe lão Kiền bảo "Vợ mày giấu trong cạp quần chứ đâu", Cấn đã vừa bảo “Đồ khốn nạn" vừa "tát Sinh một cái nảy đom đóm mắt";Khiêm kể về công việc giết lợn. Hai tay cầm hai cực điện dí vào thái dương từng con, "éc" phát là chết. Bị mất điện, phải dùng xà beng quật vào gáy lợn. Gặp con lợn khỏe, quật chục cái không chết, gáy toét cả ra. Một ca Khiêm giết được hơn nghìn con lợn.” ->Trên cơ sở sự băng hoại về đạo đức trong tư tưởng của con người dẫn tới việc sử dụng bạo lực không tình thương của nhân cách con người. Nhìn vào mối quan hệ giữa các nhân vật được phân tích trên đây, khiến cho con người ta phải suy nghĩ lại nhân cách của con người, không thể để con người bị đồ vật hóa, lố bịch hóa một cách triệt để như vậy,đ ể làm mất những giá trị truyền thống của người nhân văn. Văn chương với nhiệm vụ hướng con người đến với Chân- Thiện- Mỹ thì mục tiêu lớn nhất là làm cho con người phải Người hơn. Jean-Paul Sartre nhà triết học hàng đầu của Pháp thế kỷ xx đã từng viết “Theo chúng tôi, trước hết con người tồn tại, có nghĩa là trước hết con người hướng tới tương lai, đồng thời có ý thức về sự hướng tới tương lai đó. Con người trước hết là một dự án project tự tồn tại chủ quan, chứ không như một đám rêu, một vật đang thối rữa, hoặc một cây súp lơ”. Đó chính là đòi hỏi về ý thức chủ quan tồn tại trong bản ngã con người. Họ cần vượt qua để không trở thành những đồ vật vô tri, vô giác, như “một đám rêu, một vật đang thối rữa, hoặc một cây súp lơ”. Triết lý về nhân sinh nhân chi sơ, tính bản thiện đặt ra một câu hỏi lớn và một thách thức lớn đối với con người chân thực. Con người phải như thế nào để phần Người phải chiến thắng phần Con trong thực thể Con người? Và làm người phải chăng là một thách thức lớn? Ý nghĩa nhan đề không có vua Mỗi tác phẩm ra đời đều mang một số phận khác nhau. Có những tác phẩm vừa ra đời nhưng đã chết ngấm trong làng văn học,nhưng có những tác phẩm vừa ra đời đã gây ra một vấn đề đáng để suy ngẫm và bàn với tác phẩm văn học “Không có vua” cũng ra đời, nó đã tạo ra nhiều luồng dư luận trái chiều, nó đã gây được tiếng vang ngay từ nhan đề của mình. Như chúng ta đã biết,vua chính là đấng quân vương của một nước,là người đứng đầu của một quốc gia. Để đất nước thịnh vượng, yên ổn, ấm no,hạnh phúc thì cần phải có một ông vua anh minh, sáng suốt, yêu dân như con. Vua chính là biểu tượng của sự tôn ti trật tự trong xã hội. “Không có vua” của Nguyễn Huy Thiệp là một câu chuyện được kể về một gia đình, ở đó chính là bức tranh thu nhỏ của một xã hội,một đất nước nếu không có câu chuyện ấy,tác giả đã dùng ngòi bút của mình để lên án phê phán những thói xấu đang làm đảo điên xã hội. => "Không có vua", gợi nhớ từ "loạn cờ" được nhân vật Thủy - cô con dâu trong Tướng về hưu sử dụng. Khi nghe ông Thuấn ngỏ ý muốn giúp ông Cơ và cô Lài dọn đỡ việc nhà, cô Thủy liền phản đối “Cha là tướng, về hưu cha vẫn là tướng. Cha là chỉ huy. Cha mà làm lính thì dễ loạn cờ". “Không có vua” hay “loạn cờ” là trạng thái nhân thế đảo điên, không tôn ti trật tự, không chuẩn mực giá trị, không điểm tựa tinh thần. Tư tưởng của truyện ngắn “Không có vua” – Nguyễn Huy Thiệp. Thông qua việc phê phán sự nghịch dị các mối quan hệ trong gia đình, Nguyễn Huy Thiệp đưa ra bài học nhân sinh về con người. Con người sống tồn tại cần có chữ “Tâm” để làm cho mối quan hệ giữa người với người đỡ gay gắt và tốt đẹp hơn. Những người trong gia đình lão Kiền, thực chất ai cũng có những nét đẹp ẩn trong tâm hồn. Nhưng bình thường họ sống với nhau bằng sự ích kỉ, bằng bạo lực và những mưu tính riêng, vì thế, họ hằn học với nhau, hành hạ nhau cả về thể xác và tinh thần. Cuộc sống trong cái gia đình mất cân bằng âm-dương ấy chẳng khác nào một bàn cờ loạn vì “không có vua”. Tác giả còn đưa ra thuyết nhân quả của nhà Phật. Những điều mà lão Kiền đối xử với con cái, nhận lại hậu quả là lũ con biểu quyết cho bố chết. Lão yêu thương con, nhưng tình yêu thương ấy lại tồn tại dưới những lời đay nghiến, mỉa mai, khinh bỉ,… vì thế mà nó đẩy lão và lũ con xa nhau bởi lòng khinh ghét. Thật là chua xót biết mấy! Qua đó, tác giả như ngầm bảo chúng ta về sự tồn tại và cách cư xử của mỗi con người trong mối quan hệ với gia đình và xã hội. Người với người hãy sống lương thiện hơn. Dù giọng văn của NHT rất khách quan, lạnh lùng, nhưng ẩn sau đó, ta nhận ra tấm lòng thiết tha của tác giả với người, với đời. Tác giả muốn nhắn nhủ với chúng ta rằng cuộc đời này cũng giống như ly rượu có ngọt ngào và cả những đắng cay lời nhân vật Đoài, cuộc đời này “khổ chứ. Nhục lắm. Vừa đau đớn vừa chua xót. Nhưng thương lắm!”lời nhân vật Sinh. Chữ “thương lắm” rưng rưng ấy cho ta thấy, cuộc đời này thật sự đáng quý và đáng sống, nên hãy sống sao cho xứng đáng, cho đẹp. Về cảm hứng trong tác phẩm “Không có vua” của Nguyễn Huy Thiệp. Cảm hứng thế sự truyện ngắn Không có vua là một tác phẩm không những tiêu biểu cho sáng tác của nhà văn xuất sắc Nguyễn Huy Thiệp mà còn tiêu biểu cho cả một nền văn học mới. Tác giả đã hướng ngòi bút của mình tới những vấn đề nhân sinh giản dị, gần gũi nhưng có nhiều điều đáng để đưa ra bàn bạc. Nguyễn Huy Thiệp không tập trung xây dựng hình ảnh Đất nước rũ bùn đứng dậy sáng lòa hay khắc họa những chị Tư, anh Núp… như biểu tượng của cả dân tộc; cũng không viết về cái không khí sục sôi của lòng căm hờn quân giặc… mà quan tâm, để ý tới cuộc sống bình thường của những con người bình thường, trong một xã hội hết sức bình thường. Điều này có thể được chứng minh qua thế giới nghệ thuật trong tác phẩm Hệ thống nhân vật tác giả lựa chọn cho ngòi bút của mình những nhân vật dù có tính cách riêng, đặc điểm riêng nhưng họ hệt như là những con người chân thực từ cuộc sống bước vào vậy. Họ là một gia đình bố Kiền, 5 người con trai Khảm, Khiêm, Đoài, Cấn, Tốn và 1 cô con dâu trưởng tên Sinh. Mỗi người một ngành, một nghề. Hệ thống ngôn ngữ cũng là những khẩu ngữ hay được sử dụng, có cả những câu chửi tục, chửi thề, những tiếng khóc, tiếng than… chứ không cầu kì, hoa mĩ. Các sự kiện Tác giả kể chuyện về gia đình này cũng toàn là những chuyện hằng ngày. Nào là chuyện buổi sáng, buổi tối, chuyện ngày giỗ, ngày Tết… Cô Sinh làm bữa, thằng Tốn lau nhà, ông Kiền sửa xe, Cấn cắt tóc, Khảm xin tiền học, Khiêm mang thịt từ lò mổ về… Tác phẩm cứ như một vở kịch với các cảnh diễn khác nhau, ghép lại, rời rạc nhưng vẫn có sức hấp dẫn lạ kì. Không gian quanh quẩn trong gian nhà chật chội của bố con nhà nọ, thỉnh thoảng có mở rộng tới bệnh viện,… nhưng cũng không có gì mới lạ, hư cấu một cách thái quá. Tất cả đều quen thuộc với mỗi con người. Thời gian cũng là những ngày từ sáng đến tối, cũng những ngày giỗ, ngày Tết như ai. Thế giới được miêu tả trong tác phẩm sống động như chính cuộc sống ngoài đời thực. Con người, cảnh vật hiện lên chân thật, gần gũi. Tất cả những thứ giản dị, đời thường ấy bước vào trang truyện hồn nhiên nhưng gợi cho người đọc bao suy nghĩ, trăn trở. Cuộc sống ấy, từ một gia đình như bao gia đình khác mà suy ra hình ảnh của cả xã hội. Cái xã hội cũng trọng tiền khinh tình, cũng bát nháo, nhố nhăng, cũng không có điểm tựa, cũng mất thăng bằng như thế. Tính thế sự của tác phẩm vì thế mà càng thêm sâu sắc, thấm thía. Nguồn cảm hứng này cũng là nguồn cảm hứng của cả một nền văn học sau đổi mới- khi các nhà văn quan tâm hơn đến số phận của những con người nhỏ bé, giản dị, không ai nhớ mặt đặt tên, quan tâm hơn đến vấn đề thực sự đặt ra đằng sau cuộc sống tưởng như không có gì để bàn cãi ấy. Cảm hứng phế phán, phản tỉnh không bằng lòng với những chiều kích hiện thực mở ra trước mắt, Nguyễn Huy Thiệp đã hướng ngòi bút của mình vào những địa hạt bình thường nhất, ít ai để ý nhất để tung ra những vấn đề nóng bỏng thu hút sự quan tâm của tất cả mọi người. Ông lay động, thức tỉnh mọi người nhìn sâu vào hiện thực. Đằng sau vẻ bề ngoài vốn êm đềm, mượt mà của gia đình nhà kia, đâu ai biết là cả một sự rối rắm, một ổ những thể loại người, đủ cả, từ già đến trẻ, từ thằng trí thức đến bọn bình dân… Với ngòi bút có sức mạnh đánh thức người đọc đừng vội tin, dạy người ta biết nghi ngờ tất cả, Nguyễn Huy Thiệp còn nhân đó mà moi móc ra đủ các loại bệnh tật của cái gia đình bình thường này, như biểu tượng cho một trong vô số những ung nhọt của xã hội. Nhà văn phê phán nhiều thứ lắm cái lối sống không tôn ti, trật tự, không có phép tắc, không đạo đức; cái loại người đê tiện, xấu xa mà giả danh tri thứ; cái tật xu nịnh cấp trên; cái tục thờ cúng truyền thống đang ngày càng mai một… Tất tần tật bằng ấy thứ nhồi nhét trong mấy ngày sinh hoạt của gia đình chồng chị Sinh. Chả trách câu chuyện cứ như muốn ứa ra, muốn vỡ ra vì ngột ngạt, dồn đọng. Nhà văn kể câu chuyện bằng một giọng quá ư là khách quan, quá ư là lạnh nhạt, tới mức dửng dưng, thờ ơ. Nhưng chính cái vẻ bất cần ấy lại tô đậm thêm tính chất phê phán với những vấn đề mà ông đặt ra trong tác phẩm của mình. Ông không phê phán bằng cách chửi thẳng vào mặt nhân vật của mình mà để bọn người ấy tự chửi nhau, không bình luận, đánh giá gì mà để bản thân cái khách quan ấy tự đánh giá chính nó. Chính cảm hứng phê phán, phản tỉnh này khiến câu chuyện của Nguyễn Huy Thiệp trở nên có chiều sâu, có tính triết lí và hấp dẫn bạn đọc nhiều hơn. Phân tích các phạm trù thẩm mĩ trong “Không có vua” của Nguyễn Huy Thiệp Cái đẹp Ý nghĩa thẩm mĩ là một trong những phương diện tạo nên giá trị của tác phẩm văn học. Bên cạnh cái hài, cái bi, ta còn thấy được cái đẹp trong truyện ngắn “Không có vua” của Nguyễn Huy Thiệp. Một điều dễ dàng nhận thấy đó là có sự pha trộn giữ các phạm trù thẩm mĩ trong tính cách của từng nhân vật tạo nên tính đa diện cho từng nhân vật. Nguyễn Huy Thiệp luôn nhìn nhân vật của mình dưới các góc độ khác nhau, chính vì thế nhân vật của ông không có ai tốt hoàn toàn, cũng không có ai xấu hoàn toàn. Đó là cách nhìn một cách toàn diện bởi lẽ trong con người ta luôn tồn tại phần “con” và phần “người”, giữa ý thức, trách nhiệm và khát vọng cá nhân. - Tuy nhiên trong truyện ngắn này ta thấy hiện lên hai nhân vật mà cái đẹp nổi trội hơn đó là Sinh và Tốn. Trước hết là Sinh, người phụ nữ mới về làm dâu nhà lão Kiền, vợ của Cấn. Cô về làm dâu nhà lão Kiền cũng có nghĩa là cô đã lạc vào thế giới “phàm phu tục tử” của những người đàn ông, những người sống mạnh mẽ, sòng phẳng và có phần hoang dã. Sinh xuất hiện trong một gia đình toàn đàn ông được ví như cơn mưa giữa mùa đại hạn kéo dài "Sinh lọt vào gia đình nhà này tựa như cơn mưa rơi xuống đất nẻ. Không khí dịu lại. Vài tháng đầu, lão Kiền không gây sự gì với con cái. Cấn là người hạnh phúc nhất. Anh cầm kéo cắt tanh tách, đối xử với khách hết sức nhã nhặn"... Nhưng với bản tính chân thực, lương thiện và cũng gọi là “có ít kiến thức”, Sinh đã làm thay đổi không khí sinh hoạt của cả gia đình lão Kiền. Sinh về làm dâu mang theo cả một “phản đề” lớn cho cái thế giới ngồn ngộn những hỗn độn ấy. Có Sinh ngôi nhà mang một dáng vẻ mới. Một “vị vua” hiện diện. Một “trật tự như thế” đã được thiết lập. Cha con lão Kiền thôi bớt thô tục và cục cằn. Nhưng không lâu sau, chính Sinh lại là người phải hứng chịu hậu quả của lối sống ngột ngạt đó, đến mức cô phải đưa dao ra dọa Đoài để y không đến gần mình…Với vai trò người phụ nữ duy nhất trong gia đình, Sinh đảm nhiệm việc nội trợ trong gia đình, ngày phục vụ 3 bữa cơm chu tất cho 6 người đàn ông. Nét đẹp ở nhân vật Sinh còn ở chỗ cô dành tình cảm thương yêu cho Tốn như đối với người em trai bằng tuổi Tốn ở nhà cô vậy. Tuy có lúc thất vọng, chán nản với cuộc sống nhà chồng nhưng Sinh vẫn cảm thấy "Khổ chứ. Nhục lắm. Vừa đau đớn, vừa chua xót. Nhưng thương lắm”. - Trong giữa bối cảnh gia đình hỗn độn như vậy, Nguyễn Huy Thiệp đã xây dựng nên hình ảnh nhân vật Tốn với một dụng ý nghệ thuật sâu xa. Tốn tuy có hình thể xấu xí "bị bệnh thần kinh, người teo tóp, dị dạng" nhưng không vì thế mà những phẩm chất bên trong nhân vật này bị mất đi. Tốn "không chịu được bẩn", anh là người duy nhất trong gia đình quan tâm đến việc lau nhà. Ngay cả khi bị nhốt trong nhà xí vừa được thả ra, thấy nhà bẩn là anh lại lao ngay vào làm nhiệm vụ thường ngày của còn "hay giúp đỡ Sinh, nó cư xử với Sinh bằng lòng tốt vô bờ bến". Có thể nói Tốn là người duy nhất trong gia đình đối xử với Sinh bằng tình cảm chân thật của mình. Phải chăng Tốn yêu quý Sinh, coi Sinh như người chị, người mẹ của mình vì cậu mồ côi từ nhỏ. "Những ý thích nhỏ nhặt của cô, nó thực hiện với lòng tận tụy cầm thú" , Nửa đêm, nếu Sinh buột miệng "có ô mai thì thích" là sẽ có ngay ô mai. Không biết Tốn lấy tiền ở đâu, đi mua lúc nào, chuyện này chịu”. Khi bốn ông anh biểu quyết để bố chết thì Tốn bật khóc hu hu...Đó là tiếng khóc của một con người tuy không ý thức được mình nhưng lại là tiếng khóc chân thực nhất. Ta đặc biệt chú ý đến chi tiết Khi được Khiêm giải phóng khỏi buồng cạnh nhà xí, Tốn "chân tay mặt mũi đen nhẻm nhe răng cười" rồi "lết đôi chân què đi lên nhà"... Nhưng phải chăng ở nhân vật này lại tồn tại nguyên sơ tất cả bản năng thiện của loài người khi loài người chưa được "văn minh hóa". Khi đặt Tốn cạnh hai ông anh cử nhân Đoài và Khảm, người đọc được dịp cùng đối thoại Phải chăng hệ quả của quá trình văn hóa hóa, văn minh hóa là bản năng thiện gặp gỡ phương Đông "nhân chi sơ tính bản thiện" của con người có nguy cơ bị triệt tiêu? Nếu chỉ có Sinh và Tốn thì có lẽ nhân vật của Nguyễn Huy Thiệp trở nên đơn điệu. Không có lão Kiền, Đoài, Khiêm thì câu chuyện sẽ không được nhìn nhận một cách đa chiều. Thoạt nhìn có thể thấy nhân vật trong truyện chia làm 2 phe, trí thức và lao động chân tay. Nhưng dù ở phe nào đi nữa thì những con người ấy đều hiện lên với sự hỗn độn, bát nháo, không có vua. - Đó là một Lão Kiền suốt ngày cau có, chực cơ hội để xổ toẹt vào con cái những lời độc địa; bỉ ổi nhìn trộm con dâu tắm khỏa thân; nhẫn tâm khi đồng lõa, hợp tác với con cả nhốt con út bệnh hoạn vào buồng cạnh nhà xí để “giữ thể diện” với khách khứa... Nhưng lão cũng đáng thương khi thành thực "Đàn ông chẳng nên xấu hổ vì có con b...” "Làm người nhục lắm" "Mẹ cha mày, tao chỉ nghĩ thân tao, thì lũ chúng mày được thế này à?"... Lão đã hi sinh hạnh phúc cá nhân, một đời sống cho con cái, sống vì con cái. Và lão trở nên đáng yêu khi Rằm tháng Chạp, đi ngân hàng rút lãi tiết kiệm, mua cho Tốn cái áo sơ mi, mua cho Sinh đôi bít tất, còn lại tiền đưa cả cho Cấn; khi sáng mồng một Tết áo quần tề chỉnh cùng vợ chồng con cả đi chúc Tết hàng xóm... Và nữa, khi lão Kiền tắt thở, trên môi lão "thấp thoáng nụ cười, trông rất hiền lành, trung hậu". Phải chăng, chỉ khi "mãn hạn làm người", con người ta mới được trở về với bản tính thiện sơ nguyên của mình? - Đoài một người có trình độ cao nhất trong gia đình, làm ở Bộ giáo dục lại là người bỉ ổi, vô đạo đức, vô giáo dục nhất, trình độ ở đây không tỉ lệ thuận với đạo đức. Đoài đóng vai tính cách chẳng ăn nhập gì với vai xã hội "Lười như hủi, chữ tác chữ tộ không biết, chỉ giỏi đục khoét!" như lời lão Kiền chửi. Giữa bữa cơm gia đình, có thể nhìn chăm chú vào khoảng lõm ở ngực chị dâu, nơi chiếc khuy bấm vừa tuột ra, bâng quơ trơ trẽn khiến chị dâu ngượng chín cả mặt. Ngang nhiên sàm sỡ, đòi ngủ với chị dâu, đòi đuổi anh trai ra khỏi nhà để chiếm chị dâu. Có thể đang khi chặt thịt gà, tay đầy mỡ, cứ để thế không rửa tay, chạy lại bàn thờ mẹ vái lia lịa. Lạy gì không lạy lại lạy mẹ phù hộ cho "đi học nước ngoài, kiếm cái xe Cub". Biểu quyết để bố chết khi lâm bạo bệnh. Thở phào "Thật may quá" khi nghe bố tắt thở. Gác lại đã việc nhận điện ông cậu chết vì đang dở cuộc vui, với lại "Các bác già chết đi có gì là lạ?" Ở nhà thì cãi lại cha, đối xử tệ với người thân nhưng ra ngoài lại xu nịnh cấp trên để mong thăng quan, tiến chức... Nhưng ở nhân vật này cũng tỏ ra tử tế "Con xin lỗi bố", biết cảm thông, chia sẻ với người khác vì thông cảm cho con người đàn ông của bố, vì biết ơn sự hy sinh của bố sau khi nghe bố "nói chuyện đàn ông". Đoài tỏ ra nghĩa khí bênh vực kẻ yếu "Anh mà đụng vào cô ấy là tôi chém liền!" khi anh trai sắp giở trò vũ phu với chị dâu. Đoài cũng biết giúp Tốn dọn nhà đón mẹ con Sinh về. Trong bữa tiệc mừng thành viên mới, Đoài rót rượu ra cốc, đứng lên nói "Cốc rượu này tôi dâng cuộc sống…Vì đứa trẻ mới sinh ra kia, vì tương lai của nó"... - Khiêm một nhân vật có thể được coi là đồ tể, vũ phu nhất nhưng lại có tấm lòng ấm áp, bao dung, thương yêu mọi người nhất. Công việc của hắn là tay đồ tể "ngoại hạng", mắt "vằn tia máu đỏ", một công việc sát sinh, ăn cắp của công một năm "ăn cắp đến nửa tấn thịt" theo phép thống kê của Đoài, và "hai trăm sáu mươi bộ lòng" theo phép thống kê của Khảm, sòng phẳng đến tàn nhẫn với anh trai khi ép anh trai nhận tiền công cắt tóc "Không phải người ngoài, anh không nhận thì thôi, tôi đi hàng khác, tôi bắt thằng khác ngoáy tai cho tôi"... Nhưng Khiêm lại rất mực tử tế với chị dâu trước mâm cỗ đêm giao thừa, Khiêm bảo "Chị là bề trên, chị cứ vái ba vái trước còn đâu tôi khấn"; Khiêm bảo "Năm mới, chúc chị Sinh sức khỏe, may mắn. Mừng tuổi chị một nghìn, chị cầm lấy để cho có lộc" khiến Sinh rớm nước mắt. Khiêm rất mực tử tế với đứa em tật nguyền là Tốn đã nổi giận lôi đình khi biết anh cả chỉ vì ích kỉ muốn giữ thể diện mà có thể nhẫn tâm nhốt thằng em vào buồng cạnh nhà xí. Khiêm đã "tặng" cho Sinh và Tốn một buổi tối giao thừa vô cùng "cảm động". Khiêm cũng tử tế rất mực với bố. Bên giường bệnh của bố, khi đêm đã khuya, mọi người đã đi ngủ, "Khiêm vẫn ngồi đọc. Đọc đi rồi lại đọc lại. Đại ý bài kinh xin đức Phật giải tội cho người sắp chết, để nghiệp chướng cho người sống chịu, lời lẽ khó hiểu. Suốt đêm Khiêm ngồi đọc, lạc cả giọng"... hài Tính cách đặc biệt của một số nhân vật Sự hài hước trong tính cách được làm nên từ sự đối lập giữa nghề nghiệp, địa vị, học vấn với trình độ văn hóa và bản chất con người - Đoài rõ ràng là công chức ngành giáo dục, nhưng bản chất lại giống như một kẻ vô giáo dục dâm ô, đê tiện, hám tiền của, bất hiếu… - Khảm sinh viên đại học, cũng là kẻ có học, nhưng tính cách phóng túng, không có chính kiến, cũng bị mắc bệnh hám của và bất hiếu giống như người anh thứ hai của mình. => sự phi lí trong tương quan giữa “vai xã hội” và tính cách, ắt hẳn ban đầu sẽ gây cho người đọc tiếng cười nhẹ nhàng mang tính chất mỉa mai, chế giễu. Trong lời thoại Một số đoạn hội thoại của mấy người con lão Kiền có lẽ có thể dựng thành hài kịch, họ trêu đùa nhau, “đá đểu” nhau, cạnh khóe nhau một cách hài hước, thậm chí lấy cái dung tục để gây hài. Chẳng hạn + Đoạn thoại giữa ông Kiền, Đoài và Khảm về câu chuyện sự tích ông Táo trong bữa cơm ngày 23 tháng Chạp, + Đoạn thoại giữa Đoài với ông hàng xóm ngày mùng một Tết. + Đoạn thoại giữa Khảm-My Lan-Việt Hùng trong ngày giỗ bà Nhớn. => Cách trần thuật lạnh lùng, hết sức khách quan đã làm cho tiếng cười bật ra một cách tự nhiên và sinh động. Trong hành động, thói quen của nhân vật Có thể chắt lọc ra trong truyện rất nhiều chi tiết hài hước mà thoạt tiên, người đọc ai cũng phải bật cười - Những chi tiết nói về hành động ngây ngô của thằng Tốn luôn cặm cụi lau sàn, sẵn sàng giúp đỡ chị Sinh bất cứ lúc nào và thực hiện việc đó ngay lập tức sau khi có lệnh…. => Tiếng cười thương cảm - Bữa cơm gia đình cha con lão Kiền “ăn cơm chẳng mời ai, sáu người đàn ông, ai cũng cởi trần, mặc quần đùi cười nói thản nhiên, chan chan húp húp như rồng cuốn” => Tiếng cười bật lên từ sự phi lí tới nực cười trong lối ứng xử của các thành viên trong gia đình với nhau, suồng sã tới vô lối,chẳng có một chút tôn ti trật tự nào. - Sổ kế toán “gián điệp” của lão Cấn, giấc mơ của Khảm sau khi nghe Khiêm kể chuyện giết lợn của mình... =>Tiếng cười vui vẻ nhẹ nhàng bật lên từ những chi tiết hài hước bi Thế nhưng, dường như tất cả những tiếng cười ấy đều ẩn chứa trong nó một sự tình có vấn đề, khiến người ta cười xong mà phải suy ngẫm, ám ảnh, có cái gì như nỗi đau, như bi kịch trong câu chuyện của gia đình lão Kiền ấy. Như cách nói của một nhà nghiên cứu, Nguyễn Huy Thiệp có tài “nói chuyện hài mà cái bi luôn chầu chực để xé nát cái cười thoáng qua đó thôi”. Đọc “Không có vua” của Nguyễn Huy Thiệp cũng vậy, cái cười chỉ kịp thoáng qua, và ngay lập tức, người ta nhận thấy cái buồn đau ẩn chứa trong đó - Buồn cho luân thường đảo lộn, tình người phôi pha cha không tôn trọng con cái, con coi cha như kẻ bằng vai phải lứa, anh em tính toán với nhau, không coi nhau ra gì… - Buồn cho đạo đức con người đang dần bị băng hoại, đạo đức truyền thống trong cơn đảo điên không hề có chỗ đứng sự băng hoại đạo đức của người cha khi để phần “con” lấn át phần người chi tiết lão Kiền xem trộm con dâu tắm, sự đê tiện của một kẻ mang danh học thức như Đoài, một chàng công tử chỉ thích phong lưu và vô dụng như Khảm, một kẻ bạo lực và dữ dằn như Khiêm… - Buồn cho cả một xã hội coi đồng tiền quan trọng hơn cả tình người và sự sống của những người thân, coi “tiền là vua”, nó có lẽ là đầu mối cho mọi sự băng hoại. Tựu chung lại, có lẽ phải nói rằng, truyện “Không có vua” từ đầu chí cuối là một câu chuyện buồn, cái cười chỉ là cái bề mặt và là cái thoáng qua mà thôi. Nói như vậy để thấy rằng, giá trị thẩm mĩ của truyện được toát lên trước hết ở sự đan xen hữu ý giữa cái hài và cái bi, làm nên những ý nghĩa sâu sắc. Phụ lục Phân tích những điểm tốt, điểm xấu của các nhân vật trong Không có vua của Nguyễn Huy Thiệp Nhân vật Điểm xấu Điểm tốt Lão Kiền Suốt ngày cau có, chực cơ hội để xổ toẹt vào con cái những lời độc địa Bì ổi nhìn trộm con dâu tắm khỏa thân. Nhẫn tâm đồng lõa hợp tác với con cả nhốt con út bệnh tật vào buồng cạnh nhà xí để giữ thể diện với khách khứa Lão cũng đáng thương khi thành thực”Đàn ông chẳng nên xấu hổ vì có cái b…”. “Làm người nhục lắm”… Đứng trước bàn thờ khấn vợ lão đã khóc Lão trở nên đáng yêu khi rằm tháng chạp đi ngân hàng rút tiền tiết kiệm mua cho Tốn một chiếc áo sơ mi, mua cho Sinh một đôi bít tất, còn lại tiền đưa cho Cấn. Sáng mùng một tết áo quần chỉnh tề cùng vợ chồng con cả đi chúc tết hàng xóm. Cấn Nóng tính, vũ phu”Tát Sinh một cái nảy đom đóm mắt”. Đồng lõa với bố nhốt em trai út vào buồng cạnh nhà xí để giữ thể diện. Kiếm ra tiền để trang trải cuộc sống gia đình. Là “kế toán” của gia đình, mọi khoản chi tiêu đều ghi chép rất rõ ràng Đoài Là công chức giáo dục nhưng lại là kẻ vô giáo dục” Lười như hủi, chữ tác, chữ tộ không biết chỉ giỏi đục khoét” Mua chuộc nịnh bợ cấp trên Giữa bữa cơm gia đình có thể nhìn chăm chú vào khoảng lõm giữa ngực chị dâu nơi chiếc khuy áo vừa tuột ra. Ngang nhiên sàm sỡ đòi ngủ với chị dâu Đòi đuổi anh trai ra khỏi nhà để chiếm chị dâu. Đang chặt thịt gà, tay dầu mỡ, không rửa tay chạy lại bàn thờ khấn vái lia lịa Biểu quyết để bố chết khi bố lâm bệnh Cũng có lúc tỏ ra hối lỗi “Con xin lỗi bố” khi nhận ra những hy sinh của người bố Tỏ ra bênh vực kẻ yếu “Anh mà đụng vào cô ấy là tôi chém liền” Cũng biết giúp Tốn dọn dẹp nhà cửa đón mẹ con Sinh. Khiêm Tay đồ tể “ngoại hạng”, Mắt “vằn tia máu đỏ”. Một năm ăn cắp đến nửa tấn thịt và hai tram sáu mươi bộ lòng lợn. Sòng phẳng đến tàn nhẫn với anh trai khi ép anh trai nhận tiền công cắt tóc. Tử tế với chị dâu và đứa em tật nguyền. Khiêm đã “tặng” cho Sinh và Tốn một đêm giao thừa vô cùng “cảm động” Kính trọng chị dâu nhường chị cúng tổ tiên trước bởi vì chị là bề trên Bên giường bệnh của bố, khi đêm đã về khuya mọi người đã ngủ Khiêm đã đọc kinh đến “lạc cả giọng” để bố ra đi được thanh thản. Khảm Đi dân quân lại ăn trộm khoai lang của dân theo lời của Mỹ Lan bạn Khảm nói Ti tiện thỏa hiệp với Đoài nếu tán được Mỹ Trinh con gái ông “Ánh sáng ban ngày” thì thưởng cho em cái gì. Là sinh viên Đại học, có giáo dục. Tốn Bị bệnh thần kinh, người teo tóp dị dạng. Là người chăm chỉ Luôn giúp Sinh lau nhà giặt giũ. Tốn không chịu được bẩn cứ chốc chốc lại cầm cái xô và giẻ lau ra lau nhà. Ở nhà cứ ai thay quần áo ra Tốn lại cầm đi giặt, giặt rất sạch và phơi phóng cẩn thận. Tính cách Ít nói ai hỏi cũng cười bén lẽn và trả lời nhát gừng Tốn đối xử với Sinh bằng lòng tốt vô bờ bến “ Những ý thức của Sinh nó thực hiện bằng long tận tụy cầm thú” Khi bốn người anh biểu quyết để bố chết thì Tốn bật khóc huh u. Khi được Khiêm giải phóng khỏi buồng cạnh nhà xí, Tốn” Chân tay mặt mũi đen nhẻm nhưng vẫn nhe răng ra cười” Sinh Giấu nhẫn vào cạp quần rồi nói với chồng là bị mất trộm Sinh là người phụ nữ nhẫn nhịn chồng, chăm sóc gia đình nhà chồng hết mực, ngày ba bữa cơm Bị em chồng sàm sỡ nhưng cô nhẫn nhịn không nói với chồng sợ làm mất hòa khí gia đình nhà chồng Chung thủy với chồng Sự ra đi của nhà văn Nguyễn Huy Thiệp Tuổi Trẻ ngày 21-3 đã để lại một khoảng trống lớn trong văn đàn Việt Nam - Ảnh DƯƠNG MINH LONGLòng tin của ông vào con người không bao giờ mất. Ông yêu thương con người bắt đầu bằng sự phê phán, ông miêu tả hết cái nhếch nhác, tầm thường, cái khốn nạn, cái không đáng yêu của cuộc đời, nhưng chính bằng cách đó ông lại làm cho người ta hiểu và yêu đời hơn và có thể làm người tốt nghiên cứu VƯƠNG TRÍ NHÀNTrong văn học Việt Nam đương thời, Nguyễn Huy Thiệp đứng một mình, đứng riêng một chỗ. Nguyễn Huy Thiệp viết do ông thấy tự mình phải viết và không viết không đúng về cái ác chính là khơi dòng cho sự nhân hậuNgười ta sớm thấy toát ra trong các truyện ngắn của ông những ý đại loại như "cuộc đời thật là xấu, không đáng tin, nhưng không tin thì làm sao mà sống nổi", "cuộc đời rất buồn nhưng cuộc đời vẫn rất đẹp."Đọc Tướng về hưu, Không có vua... thấy Nguyễn Huy Thiệp đã rất lõi đời, nhìn đời thấy không có gì đáng sống, nhưng người ta vẫn phải sống với nó. Về sau đọc Nguyễn Thị Lộ hay Sang sông thì lại thấy Nguyễn Huy Thiệp vẫn còn có cái bình thản tin đời, tin cả cái hào sảng trong sáng của hồn nhiên suy nghĩ chứ không cố tỏ ra triết lý, tỏ ra sâu sắc. Cũng tức là không cố tỏ ra hiểu đời mà thật đã rất hiểu sống với tư tưởng của muôn đời khi đề cập đủ chuyện nào vấn đề thiện và ác, làm người thế nào, nào câu hỏi cuộc sống là tốt đẹp hay đáng phỉ nhổ...Bao giờ câu trả lời của Nguyễn Huy Thiệp cũng song trùng, vừa thế này vừa thế kia, như bản chất của vật chất vừa là sóng vừa là hạt, cuộc đời vừa đáng yêu vừa đáng ghét, vừa đáng phỉ nhổ vừa đáng trân trong một truyện ngắn con người hiện ra "nhếch nhác toàn tập" như Không có vua thì câu người ta nhớ nhất là câu "Thương lắm" của cô Sinh, ở cuối Nguyễn Huy Thiệp, người viết văn viết báo ở ta luôn luôn bị môi trường hoạt động của mình chi phối, người nọ nhìn người kia mà sống và làm nghề. Chúng tôi thường trông đàn anh của mình viết rồi viết theo, không vượt được hoàn Huy Thiệp chẳng nhìn ai cùng thời, ông sống với các nhà văn lớp trước từ Nguyễn Du, Nguyễn Trãi, Tú Xương trở đi tới Nam Cao, Nguyễn Bính, Vũ Trọng Phụng... Rõ ràng Nguyễn Huy Thiệp đối thoại, trò chuyện với rất nhiều đấng bậc, những người làm vẻ vang cho văn học Việt Nam, những nhà văn thực lớn nhà văn hiện nay bắt đầu là những chiến sĩ văn nghệ, với vai đó họ là những công chức cần thiết cho xã hội. Về sau một số họ lại thường tuyên bố chỉ làm văn nghệ cho vui. Nhưng theo tôi trước sau họ vẫn không phải là "làm" văn học. Hoặc nói chính xác hơn họ không làm thứ văn học có thể tiếp nối được dòng mạch mà những nhà văn lớn của Việt Nam đã tạo ra được trong lịch sử, thứ văn học của muôn khi Nguyễn Huy Thiệp xuất hiện, văn học thường xa lạ với các vấn đề trừu tượng nhất là các vấn đề nhân bản. Đến Nguyễn Huy Thiệp, những phạm trù của muôn đời như chuyện thiện và ác trong con người lại là ngón sở trường của thấy Nguyễn Huy Thiệp viết về cái ác thì người ta kêu ầm lên rằng không nên làm thế, không cần viết về cái ác mà nghệ thuật chỉ viết về cái thiện là đủ thậm chí cho viết về cái ác là tội Huy Thiệp không thể làm khác. Hình như trong thâm tâm ông cảm thấy cần viết về cái ác, phải làm thế mới đẩy lùi nó đi ác trong văn Nguyễn Huy Thiệp dai dẳng, bao trùm. Và viết về cái ác chính là cái nhân hậu của Nguyễn Huy Thiệp, lòng nhân hậu của những nhân vật lớn, cái nhân hậu xa lạ với khuôn mẫu sự nhân hậu đương thời. Đó là sự nhân hậu lặn sâu bên tin của ông vào con người không bao giờ mất. Ông yêu thương con người bắt đầu bằng sự phê phán, ông miêu tả hết cái nhếch nhác, tầm thường, cái khốn nạn, cái không đáng yêu của cuộc đời, nhưng chính bằng cách đó ông lại làm cho người ta hiểu và yêu đời hơn và có thể làm người tốt người hiện nay cũng viết về cái ác nhưng không có cái tâm của ông nên không thể đạt hiệu quả như văn Nguyễn Huy Thiệp ký tặng sách họa sĩ Lê Thiết Cương tại nhà họa sĩ năm 2018 - Ảnh LÊ THIẾT CƯƠNGKhông thay đổi theo thờiNguyễn Huy Thiệp lạ lắm, ông sống hòa hợp với các đồng nghiệp mà hình như vẫn đứng ngoài giới nhà văn đương thời và có lẽ điều đó cắt nghĩa được vì sao Nguyễn Huy Thiệp chịu đựng giỏi được như không thấy ai, trong suốt cuộc đời làm nghề, có tài chịu đựng được như Nguyễn Huy Thiệp. Bao lần tôi cứ tưởng ông gục ngã song ông vẫn đứng vượt qua được những tàn bạo của đời có lẽ cũng vì ông sớm đạt được cái đạo là biết sự nổi tiếng của mình phải trả giá rất nhiều. Một thứ bản năng thiêng liêng mách bảo ông phải chấp nhận những đau khổ thì mới phải đạo, và Nguyễn Huy Thiệp đã không đầu hội hiện nay thù ghét nhiều cá tính sang trọng, tiêu diệt nhiều lối suy nghĩ chính trực. Con người chen cạnh nhau ràng buộc nhau nhiều quá, do đó giống nhau quá. Nhưng Nguyễn Huy Thiệp viết không để chen cạnh ai, không viết để lấy giải thưởng. Ông chỉ là ông một cái tôi của từng trải và các loại tri thức học vấn thứ thiệt. Nên nhớ ông từng là giáo viên lịch vẫn nghĩ, thật may mắn cho mình được sống cùng thời với Nguyễn Huy Thiệp. May mắn chúng ta còn có Nguyễn Huy cuộc đời trầm luân, nhưng đáng giáVới nhà văn, nhà giáo Nhật Chiêu, văn chương Nguyễn Huy Thiệp đầy khí lực với bút pháp phản uyển ngữ. "Văn chương Việt Nam từ trước đến nay có một đặc điểm là thích dùng uyển ngữ, tức cách nói vòng, nói tránh là chủ yếu. Cho đến khi Nguyễn Huy Thiệp xuất hiện, đem lại một sinh khí mới, mà ở đó người ta thấy sự trần trụi hiểu theo mọi nghĩa của từ này. Bút pháp ấy như là phản uyển ngữ, làm cho bỗng dưng văn chương có một khí lực mới, tất nhiên ở Việt Nam thôi, chứ không mới so với nước ngoài. Nhưng quả thật nó lạ với dòng văn chương quá nhiều uyển ngữ của Việt Nguyễn Huy Thiệp trở về sau này, một số nhà văn Việt Nam có vẻ cũng thử nghiệm với bút pháp phản uyển ngữ nhưng đều không thành công bằng" - nhà văn Nhật Chiêu chia văn Nguyễn Huy Thiệp - Ảnh NGUYỄN ĐÌNH TOÁN"Tôi đã "gặp" Nguyễn Huy Thiệp từ năm 15 tuổi nhưng mãi đến năm 2019, khi ở tuổi 47 tôi mới được gặp ông ngoài đời tại Hà Nội" - nhà văn Trần Nhã Thụy tâm sự khi hay tin nhà văn Nguyễn Huy Thiệp vừa tạ thế. Lần "gặp" năm 15 tuổi là lúc cậu học sinh lớp 10 chuyên văn cùng các bạn làm bài bình luận về Tướng về hưu - truyện ngắn in trên báo Văn Nghệ một năm trước đó 1987.Có thể nói điều này, đối với lớp nhà văn chúng tôi, không ít thì nhiều đều ảnh hưởng bởi phong cách truyện ngắn Nguyễn Huy ngắn của Nguyễn Huy Thiệp có từ trường rất mạnh, nó hút người ta vào ngay từ chữ và dòng đầu tiên. Nguyễn Huy Thiệp cũng là người rất giỏi sử dụng đối thoại theo kiểu "công án thiền" nên vừa thực vừa ảo, vừa ẩn dụ vừa hiện thực, vừa khuấy đảo tâm trí vừa gợi mở tưởng tượng... Mấy chục năm rồi, có thể nói chưa có gương mặt truyện ngắn nào có thể thay thế Nguyễn Huy cũng xin nói thật điều này, hồi còn trẻ tôi từng không thích, thậm chí là ghét Nguyễn Huy Thiệp, không phải vì ông làm gì tôi cả, mà vì ông quá tài. Nhưng khi càng lớn tôi tự "hóa giải" điều đó vì thấy thật ngu xuẩn. "Danh càng lớn thì họa càng cao", đó là câu nói của Nguyễn Huy Thiệp mà tôi lấy làm bài học cho mình trong suốt cuộc đời này. Một cuộc đời trầm luân, nhưng đáng giá, đó chính là Nguyễn Huy Thiệp".LAM ĐIỀN ghiTin từ gia đình nhà văn Nguyễn Huy Thiệp cho biết, tang lễ của nhà văn sẽ được tổ chức tại Nhà tang lễ quốc gia số 5 Trần Thánh Tông, Hà Nội vào sáng viếng từ 9h15 đến 10h30, an táng tại nghĩa trang nhỏ ở huyện Đông Anh, trong khu mộ của gia đình cùng với vợ ông, người đã đi trước ông hơn 100 ngày Nhà văn Việt Nam sẽ đứng ra cùng gia đình tổ chức tang lễ cho nhà văn Nguyễn Huy Thiệp. Ông Nguyễn Bình Phương - phó chủ tịch hội nói đây là vinh dự lớn của hội. Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam Nguyễn Quang Thiều sẽ viết và đọc điếu văn trong tang lễ của Nguyễn Huy là điếu văn đầu tiên ông Thiều viết cho một hội viên với tư cách là chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam. Ông Thiều cảm động coi đây là mối duyên đẹp giữa ông và nhà văn Nguyễn Huy Thiệp. Có sự nghiệp văn chương đồ sộ, được xem là “của hiếm”, là “hiện tượng độc đáo” thậm chí đến mức gây tranh cãi với các thể loại sáng tác gồm truyện ngắn, kịch, tiểu luận, phê bình văn học, song nhà văn Nguyễn Huy Thiệp thành công nhất là truyện ngắn… Nhà văn Nguyễn Huy Thiệp 1950 – 2021 Ngày nhà văn Nguyễn Huy Thiệp đã rời cõi tạm sau thời gian dài chiến đấu với bệnh tật, để lại khoảng trống lớn cho văn đàn Việt Nam. Văn học đương đại Việt Nam hơn ba chục năm qua, không thể không nói tới nhà văn Nguyễn Huy Thiệp với hàng loạt truyện ngắn đưa tên tuổi ông lên hàng các tác gia kiệt xuất của văn chương Việt Nam cuối thế kỷ XX. Trong đó, các truyện “Tướng về hưu”, “Không có vua”… được coi là dấu mốc mở đầu cho thời kỳ văn học đổi mới. Nguyễn Huy Thiệp – người tạo ra bước ngoặt trong văn chương Việt Nam sau 1975 Nguyễn Huy Thiệp sinh ngày tại huyện Thanh Trì, Hà Nội. Thuở nhỏ, ông cùng gia đình lưu lạc khắp nông thôn đồng bằng Bắc Bộ, từ Thái Nguyên qua Phú Thọ, Vĩnh Yên… Vì thế, nông thôn và những người lao động để lại nhiều dấu ấn khá đậm nét trong những sáng tác của ông. Năm 1970, Nguyễn Huy Thiệp tốt nghiệp khoa sử Trường Đại học Sư phạm Hà Nội. Trước khi trở thành người viết chuyên nghiệp, ông đã có nhiều năm là một thày giáo ở miền núi. Sự nghiệp văn chương của Nguyễn Huy Thiệp bắt đầu khá muộn với các truyện ngắn đăng trên báo Văn Nghệ. Tuy nhiên chỉ một vài năm sau đó, cả làng văn học trong lẫn ngoài nước xôn xao những cuộc tranh luận về các tác phẩm của ông. Với hơn 50 truyện ngắn, 10 vở kịch, 4 tiểu thuyết cùng nhiều tiểu luận, phê bình văn học gây chú ý, Nguyễn Huy Thiệp được xem là một “hiện tượng hiếm” của văn đàn Việt Nam. Các thể loại của ông đa dạng từ truyện ngắn, tiểu thuyết đến cả kịch mang hơi hướng huyền thoại, cổ tích và những góc nhìn táo bạo và đa chiều về làng quê, người lao động. Tên tuổi của ông gắn liền với các truyện ngắn như “Tướng về hưu”, “Muối của rừng”, “Không có vua”, “Con gái thủy thần”, “Những người thợ xẻ”, “Thương nhớ đồng quê”, “Sang sông”… và bộ ba truyện ngắn lịch sử gồm “Kiếm sắc”, “Vàng lửa”, “Phẩm tiết”… Ba cuốn tiểu thuyết của nhà văn Nguyễn Huy Thiệp đã được xuất bản gồm “Tiểu long nữ”, “Gạ tình lấy điểm”, “Tuổi 20 yêu dấu”. Các tác phẩm “Tướng về hưu”, “Thương nhớ đồng quê” của ông đã được chuyển thể thành tác phẩm điện ảnh và cũng đã gây tiếng vang… Truyện ngắn của ông cũng được dịch sang nhiều ngôn ngữ như Pháp, Anh, Italy, Thụy Điển, Đức, Hàn Quốc, Nhật Bản, Indonesia… Năm 2007, 2008, nhà văn Nguyễn Huy Thiệp liên tục nhận Huân chương Văn học Nghệ thuật của Pháp và giải thưởng Premio Nonino của Italy. Năm 2015, ông hoàn thành tiểu thuyết “Vong bướm” và quyết định dừng nghiệp sáng tác ở tuổi 65. Nguyễn Huy Thiệp cũng là một trong 50 tác giả có các tác phẩm, cụm tác phẩm xuất sắc được đề nghị xét tặng Giải thưởng Nhà nước trong lĩnh vực Văn học nghệ thuật 2021. Hai tác phẩm được đề nghị xét giải của ông là truyện ngắn “Tướng về hưu” và “Những ngọn gió Hua Tát”. Sinh thời, nhà văn Nguyễn Huy Thiệp khiêm tốn tự nhận ông “là một dạng ăn may, may mắn gặp thời” nhưng ông rất xác tín về “phẩm chất của một nhà văn”. Tác giả “Tướng về hưu” dẫn lại “lời của các cụ ngày xưa” mà ông tâm ý chính là lời nói của nhà bác học Lê Quý Đôn 1726-1784 “Văn học không phải trò chơi, là câu chuyện phiếm. Muốn văn hay phải hiểu biết và từng trải nhiều. Văn chương chữ nghĩa không phải là lời nói suông. Trong bụng không có ba vạn quyển sách, trong mắt không có núi sông kỳ lạ của thiên hạ thì không thể làm văn được”. Đánh giá về vai trò của Nguyễn Huy Thiệp trong văn chương Việt Nam từ 1975-1991, nhà phê bình La Khắc Hòa nhận định “Nguyễn Minh Châu mở đường đổi mới văn học Việt Nam sau 1975 với truyện ngắn Bức tranh. Còn Nguyễn Huy Thiệp là người đầu tiên tạo ra bước ngoặt quan trọng của đổi mới”. Nhiều nhà nghiên cứu văn học đã nhận định rằng, một mình Nguyễn Huy Thiệp không làm nên được diện mạo của nền văn học Việt Nam sau 1975 đến nay, nhưng một mình ông lại có thể đào xới lên nhiều vấn đề thuộc về bản chất văn học, tạo nên sức bật khỏi ảnh hưởng văn học trước 1975, từ đó đưa văn học Việt Nam sau 1975 đi xa hơn, vững vàng hơn trên hành trình đổi mới văn học dân tộc, hòa nhập vào biển cả văn học hiện đại của thế giới. Thấm đượm trên ngòi bút sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp là tư tưởng triết học tự nhiên, một thứ triết học nguyên sơ, bắt nguồn từ tín ngưỡng phồn thực sâu xa của nền văn hóa cổ Đông Nam Á. Những tác phẩm của Nguyễn Huy Thiệp một mặt là sự tiếp nối, bảo lưu nguồn mạch văn học dân gian, mặt khác lại tiếp thu tính hiện đại, đánh dấu bước ngoặt của văn học Việt Nam thời đổi mới, khai phá những chủ đề như cái phi lý, sự cô đơn, tha hóa của xã hội… hòa vào dòng chảy của chủ nghĩa hiện đại trong văn học thế giới thế kỷ XX. Bằng ngòi bút đầy bản lĩnh và tài năng sáng tạo, Nguyễn Huy Thiệp đã làm một cuộc cách mạng trong tư duy nghệ thuật so với truyền thống. Những tác phẩm của ông mang lại cho độc giả một cảm giác vừa thân quen, vừa lạ lẫm, vừa truyền thống, vừa hiện đại. Nét cá tính và phóng khoáng, không bị gò bó bởi khuôn mẫu đã khiến cho văn chương của ông có sức hút một cách kỳ lạ khó có thể diễn tả. Nguyễn Huy Thiệp – “ông vua truyện ngắn” Có sự nghiệp văn chương đồ sộ, được xem là “của hiếm”, là “hiện tượng độc đáo” thậm chí đến mức gây tranh cãi với các thể loại sáng tác gồm truyện ngắn, kịch, tiểu luận, phê bình văn học, song nhà văn Nguyễn Huy Thiệp thành công nhất là truyện ngắn. Trong các tác phẩm nổi tiếng của ông, nổi bật nhất với “Tướng về hưu” phổ biến lần đầu vào tháng 6-1987 trên Báo Văn nghệ – lúc bấy giờ Nguyễn Huy Thiệp còn là nhân viên Công ty Sách – thiết bị trường học thuộc Bộ Giáo dục và “chưa có tên tuổi gì ở trên văn đàn” như ông tự nhận. Với tác phẩm “Tướng về hưu”, điều độc đáo mà bao nhà nghiên cứu phê bình văn học, giới mộ điệu văn chương và công chúng thưởng thức từng bình phẩm, tranh luận suốt hơn 30 năm qua đó chính là câu chuyện, dòng văn độc đáo, khó ai bắt chước trên một cốt truyện lẫn nhân vật bình thường. Thật vậy, những câu đơn với giọng kể chắt lọc, súc tích của ông đi sâu vào tâm trí người đọc dẫu cho nó có chua chát hay nhẹ nhàng. Hiện thực cuộc sống, số phận con người trong xã hội sau chiến tranh từ đó được phản ánh rất mạnh mẽ bằng thủ pháp văn chương rất riêng của Nguyễn Huy Thiệp. Không có cái gì là đơn giản, một chiều trong thế giới nhân vật trong văn chương Nguyễn Huy Thiệp. Nhà nghiên cứu và phê bình văn học Vương Trí Nhàn nhận định “Nếu có một thứ “quả bóng vàng” hay là “cây bút vàng” dành để tặng cho các cây bút xuất sắc hằng năm, thì trong năm 1987 – và cả nửa đầu năm 1988 – người xứng đáng được giải trong văn xuôi ta, có lẽ là Nguyễn Huy Thiệp. Nhắc tới anh, người ta nhớ “Tướng về hưu” gây xôn xao một dạo, bởi cách viết rạch ròi, trần trụi; nhớ Muối của rừng tưởng như không đâu, hóa ra lại đượm nhiều ngụ ý âm thầm; nhớ “Một thoáng Xuân Hương” lịch duyệt mang đậm phong vị kẻ sĩ Bắc Hà; nhớ “Con gái thuỷ thần” lẫn lộn hư thực, và liều lĩnh đến tùy tiện”. Thế giới nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp từ những người nghèo khổ, hay những người mang hình dạng kì dị… tuy mang dáng dấp cổ tích, nhưng lại chất chứa những cảm giác thời hiện đại. Họ luôn luôn dấn thân trên con đường đi tìm hạnh phúc, đi tìm cái Chân, Thiện, Mỹ tuyệt đối, để rồi nhận được những bài học cay đắng, xót xa. Với tuyên ngôn “Tôi căm ghét sâu sắc những kết thúc có hậu”, những truyện ngắn “giả cổ tích”, “giả truyền kỳ” của Nguyễn Huy Thiệp hầu hết đều kết thúc không có hậu. Nó mở ra những dự cảm, những cảm xúc tái tê đằng sau khối cô văn lạnh lùng của một cây bút tỉnh táo, sắc nhạy, khiến cho người đọc cứ thế ngấm dần, ngấm dần và xoáy theo luồng xúc cảm cùng những nhân vật. Với giọng văn “lạnh”, tác giả đã thể hiện một thái độ dửng dưng tuyệt đối đối với nội dung tư tưởng được thể hiện trong tác phẩm. Qua giọng văn ấy, thế giới nhân vật, nội dung câu chuyện luôn hiện ra một chất trung thực, khách quan trước mắt người đọc. Người đọc được tách biệt hoàn toàn so với thiên kiến của tác giả. Độc giả được tự do phán xét nhân vật theo chủ kiến của mình. Trong nhiều truyện ngắn “Không có vua”, “Những bài học nông thôn”, “Tướng về hưu”… tác giả cũng nhập vào vai người kể chuyện nhân vật xưng “tôi” nhưng vẫn cố ý tách ra khỏi câu chuyện để đảm bảo tính khách quan. Để tạo ra được giọng văn “lạnh”, Nguyễn Huy Thiệp dùng nhiều câu trần thuật ngắn gọn, súc tích, mang đậm tính liệt kê. Nguyễn Huy Thiệp rất chuộng dùng câu đơn. Đối với loại câu đơn có xuất hiện thành phần phụ thì thành phần phụ thường được tách ra bằng dấu phẩy. Riêng câu ghép, các vế cũng được tách ra rạch ròi. Điển hình “Cha tôi tên Thuấn, con trưởng họ Nguyễn. Trong làng, họ Nguyễn là họ lớn, số lượng trai đinh có lẽ chỉ thua họ Vũ. Ông nội tôi trước kia học Nho, sau về dạy học. Ông nội tôi có hai vợ. Bà cả sinh được cha tôi ít ngày thì mất, vì vậy ông nội tôi phải tục huyền. Bà hai làm nghề nhuộm vải…” “Tướng về hưu”; hay “Cấn là con trưởng. Dưới Cấn có bốn em trai, chênh nhau một, hai tuổi. Đoài là công chức ngành giáo dục, Khiêm là nhân viên lò mổ thuộc Công ty thực phẩm, Khảm là sinh viên đại học. Tốn, con út, bị bệnh thần kinh, người teo tóp, dị dạng. Nhà lão Kiền sáu người. Toàn đàn ông” “Không có vua”… Những câu văn sắc lạnh dửng dưng như thế có mặt khắp các trang văn của Nguyễn Huy Thiệp. Nó tạo cho tác giả một nét riêng độc đáo về phong cách. Có thể thấy, hầu hết những truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp đều chứa đựng một hoặc vài lời triết lý của ông về văn chương. Điều đó chứng tỏ, Nguyễn Huy Thiệp là người hay trăn trở về văn chương và ý nghĩa của nó. Những triết lý đó, được phát biểu gián tiếp qua các nhân vật, qua tình huống truyện hoặc đôi khi phát biểu một cách trực tiếp. Trước đây, Nam Cao cũng thường thể hiện những quan niệm của mình trên trang viết của mình. Nhưng với Nguyễn Huy Thiệp, văn chương không đơn giản và rành mạch như Nam Cao. Cái nhìn của ông về văn chương có gì đó rất phức tạp – phức tạp như chính cuộc đời, khi thì “văn chương là thứ bỉ ổi nhất” “Chút thoáng Xuân Hương”, khi thì “văn chương có cái gì từa tựa lẽ phải” “Giọt máu”, khi thì “văn chương có nhiều thứ lắm. Có thứ văn chương hành nghề kiếm sống, có thứ văn chương sửa mình, có thứ văn chương trốn đời, trốn việc. Lại có thứ văn chương làm loạn” “Giọt máu”. Những triết lý đó đã phá vỡ cái khuôn mẫu, từ đó chính ông đã dùng ngòi bút và con mắt tinh tường của mình khiến huyền thoại hóa giải huyền thoại, dùng cổ tích để hóa giải cổ tích. Tinh thần “tự phê”, “tự nghiệm”, ý thức phản tỉnh và tra vấn đã làm nên sức mạnh và giá trị của truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp. Cái tâm của nhà văn, không gì khác hơn, chính là sự thức nhận về sứ mệnh “khơi gợi chân lý”, tra vấn nhân tâm của người nghệ sĩ. Đồng thời, tinh thần nghệ thuật hiện đại cũng không cho phép một sự ban phát chân lý cuối cùng, một tư thế độc thoại giữa nhà văn và bạn đọc. Truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp mang màu sắc dân chủ và hiện đại bởi đó là những tác phẩm “mở”, ở đó, cả người viết và người đọc đều được đẩy vào một cuộc đối thoại lớn và nhà văn “để ngỏ cuộc đối thoại đó mà không đánh dấu chấm hết”. Sự ra đi của nhà văn Nguyễn Huy Thiệp đã để lại một khoảng trống rất lớn đối với văn đàn Việt Nam. Đối với nhà văn Nguyễn Văn Thọ “Nguyễn Huy Thiệp mất, tôi mất đi một bạn văn lớn – người chia sẻ với tôi rất nhiều về bút pháp, về vị trí và vai trò của nhà văn trong xã hội. Đồng thời, sự ra đi của anh, tạo ra một lỗ thủng đối với văn đàn Việt Nam”. Còn theo nhà phê bình Văn Giá “trước Nguyễn Huy Thiệp, văn học Việt Nam khác. Từ Nguyễn Huy Thiệp trở đi, văn học Việt Nam khác. Ông đã cắm một dấu mốc rất ghê gớm và quan trọng vào đời sống văn học Việt Nam. Trong đổi mới, có những đổi mới từ từ, từ người này đến người kia. Nhưng Nguyễn Huy Thiệp xuất hiện năm 1987, đã gây nên một dấu ấn đậm nét. Ông tạo ra một cảm quan, cái nhìn mới về đời sống, dẫn đến một hướng viết mới, một ngôn ngữ mới, một cách biểu đạt mới trong văn xuôi Việt Nam hiện đại. Nhà văn Nguyễn Huy Thiệp có sứ mệnh đổi mới văn học; và ông đã hoàn thành xuất sắc sứ mệnh của mình”. Nhà thơ Trần Đăng Khoa cũng rất đau buồn khi nền văn học nước nhà mất đi một cây đại thụ. Theo ông “thời kỳ 1985-1996, ở mảng truyện ngắn, không ai viết hay hơn Nguyễn Huy Thiệp. Giọng văn của ông có chất riêng, ngắn gọn, sắc nét, không dông dài. Điều mừng là cuối đời ông có tên trong danh sách xét tặng giải thưởng Nhà nước. Đó là ghi nhận xứng đáng cho tài năng của ông”. DIỆP NINH/ TTXVN Xem thêm Nhà thơ Nguyễn Duy “Tôi viết bằng cái tình, cái hồn của dân” Loài người có bớt ngạo mạn? Khi thơ là “phong cách của tư tưởng” Truyện ngắn Phạm Hữu Hoàng Trăng lạnh Thơ 1-2-3 Nguyễn Đinh Văn Hiếu Lửa ngoài trời mà đốt cháy tâm can Nhà văn Nguyễn Huy Thiệp Nguyễn Huy Thiệp sinh năm 1950, quê huyện Thanh Trì, Hà Nội. Thuở nhỏ ông cùng gia đình lưu lạc khắp nông thôn đồng bằng Bắc Bộ, từ Thái Nguyên qua Phú Thọ, Vĩnh Phúc… Năm 1960, gia đình chuyển về quê, định cư ở xóm Cò, làng Khương Hạ, Hà Nội. Năm 1970, ông tốt nghiệp khoa sử Trường Đại học Sư phạm Hà Nội và lên dạy học tại Tây Bắc đến năm 1980. Năm 1980, ông chuyển về làm việc tại Bộ Giáo dục và Đào tạo, sau đó, làm việc tại Công ty Kỹ thuật trắc địa bản đồ, Cục Bản đồ cho đến khi về hưu. Nguyễn Huy Thiệp chịu ảnh hưởng giáo dục chủ yếu của ông ngoại, vốn là người am hiểu nho học và mẹ, vốn là người sùng đạo Phật. Ông xuất hiện khá muộn trên văn đàn Việt Nam với vài truyện ngắn đăng trên Báo Văn nghệ năm 1986. Tác phẩm của Nguyễn Huy Thiệp in dấu ấn khá đậm nét về nông thôn và những người lao động. Truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp Sở trường của Nguyễn Huy Thiệp là truyện ngắn, có thể tạm được phân loại như sau Về lịch sử và văn học Kiếm sắc, Vàng lửa, Phẩm tiết, Nguyễn Thị Lộ, Mưa Nhã Nam, Chút thoáng Xuân Hương… Truyện ngắn mang hơi hướm huyền thoại hoặc “cổ tích” Những ngọn gió Hua Tát, Con gái thủy thần, Giọt máu, Muối của rừng, Chảy đi sông ơi, Trương Chi… Về xã hội VN đương đại Không có vua, Tướng về hưu, Cún, Sang sông, Tội ác và trừng phạt… Về đồng quê và những người dân lao động Thương nhớ đồng quê, Những bài học nông thôn, Những người thợ xẻ… Tướng về hưu Thương nhớ đồng quê Mưa Nhã Nam Tội ác và trừng phạt Chảy đi sông ơi Những người thợ xẻ Sang sông Trương Chi Chút thoáng Xuân Hương Kiếm sắc Vàng lửa Phẩm tiết Mưa Nguyễn Thị Lộ Huyền thoại phố phường Cún Đời thế mà vui Những bài học nông thôn Cánh buồm nâu thuở ấy Muối của rừng Không có vua Giọt máu Con gái thủy thần Đưa sáo sang sông Sống dễ lắm Hạc vừa bay vừa kêu thảng thốt Những ngọn gió Hua Tát Mười truyện trong bản nhỏ

không có vua nguyễn huy thiệp